III-PHE NGÔ:
1/Tôn Kiên ( tự Văn Đài) :
Tôn Kiên (155-193), tự Văn Đài, là một vị tướng quân đội tài giỏi trong lịch sử Trung Hoa đã đặt nền móng xây dựng nên nhà Đông Ngô vào đời Tam Quốc. Ông có 5 người con trai trong đó hai người nổi bật là con cả Tôn Sách và con thứ Tôn Quyền. Ngòai ra ông còn có một người con gái là Tôn Thượng Hương.
Năm 184, loạn giặc Khăn vàng do Trương Giác lãnh đạo bùng nổ. Tôn Kiên nhờ có công tham gia dẹp giặc nên được phong làm thái thú Trường Sa. Năm 191, Viên Thuật là em của Viên Thiệu xui Tôn Kiên tấn công Lưu Biểu. Tôn Kiên cùng con trai là Tôn Sách kéo quân đến Kinh Châu nhưng chẳng may năm 193, Tôn Kiên bị lọt vào trận mai phục của Lã Công, tướng Lưu Biểu nên cả người lẫn ngựa chết dưới chân núi Hiện Sơn, thọ 38 tuổi.
Tôn Kiên là người đặt nền móng cho nhà Đông Ngô, nhưng con trai ông là Tôn Quyền mới thực sự là người đưa nhà Ngô đến cực thịnh, cũng như nắm vai trò lớn hơn trong Tam Quốc Diễn Nghĩa.
2/Tôn Sách ( tự Bá Phù, con trai lớn Tôn Kiên ) :
Tôn Sách (175 – 200) là một viên tướng và một lãnh chúa trong thời kỳ cuối của nhà Đông Hán và thời kỳ đầu của Tam Quốc ở Trung Hoa. Ông có công lớn trong việc xây dựng nền móng nhà Ngô.
Năm 200, khi lãnh chúa đang nổi lên là Tào Tháo đang có trận đánh quyết định với Viên Thiệu tại Quan Độ, thì Tôn Sách dường như đã có kế hoạch tấn công kinh đô và căn cứ quân sự của Tào Tháo tại Hứa Xương. Tuy nhiên, ông đã bị ám sát và chết trước khi có thể thực hiện được kế hoạch này. Thưở trẻ Tôn Sách chơi thân với Chu Du, hai người cùng lấy vợ họ Kiều Tông. Tôn Sách lấy Đại Kiều còn Chu Du lấy Tiểu Kiều.
Một nhân vật cùng thời là Hứa Cống, trong một bức thư gửi cho Hán Hiến Đế, đã so sánh Tôn Sách với Hạng Vũ, một mãnh tướng cuối thời kỳ nhà Tần. Do Hạng Vũ thường được gọi là Sở Bá Vương nên Tôn Sách vì thế mà còn được gọi là Tiểu Bá Vương trong văn hóa dân gian Trung Quốc.
3/Tôn Quyền ( tự Trọng Mưu, con thứ Tôn Kiên):
Tôn Quyền (182 – 252), tự Trọng Mưu. Ông là người xây dựng nước Ngô thời Tam Quốc.
Cuối đời Đông Hán, sau khi cha Tôn Quyền là Tôn Kiên, anh ông là Tôn Sách đã chiếm cứ 6 quận Giang Đông làm căn cứ kình chống nhau giữa các phe phái quân phiệt. Tôn Kiên chết, không lâu sau Tôn Sách cũng bị kẻ có tư thù giết hại trong một cuộc đi săn. Trước khi chết, Tôn Sách nói với bọn mưu thần Trương Chiêu:
“Các ngươi nên gắng sức giúp em ta.”
Tôn Quyền mới 18 tuổi đã nối chức vụ của anh mình, trở thành người thống trị tối cao ở tỉnh Giang Đông. Do Tôn Quyền có tài, lại chú ý đoàn kết lực lượng các phe, nên nhanh chóng dành được uy vọng, khiến cục thế Đông Ngô ổn định trong thời hỗn loạn. Năm 229, Tôn Quyền xưng đế ở Vũ Xương, lấy quốc hiệu là Ngô, sau dời đô đến Kiến Nghiệp (nay là thành phố Nam Kinh, Giang Tô). Tài năng chính trị của ông thậm chí Tào Tháo cũng phải khen ngợi, tuy rằng Tôn Sách anh của Tôn Quyền cũng là một người tài giỏi gần như vẹn toàn nhưng Tào Tháo không hề xem trọng, ông từng khen “Sinh con nên như Tôn Trọng Mưu”.
Năm 252, Tôn Quyền qua đời, thọ 71 tuổi. Ông được truy tôn là Ngô Đại Đế.
Sau cái chết của Tôn Quyền, nước Ngô phát sinh lục đục nội bộ và suy yếu.
5/Tôn Thượng Hương ( vợ Lưu Bị, con Tôn Kiên ) :
Tôn Thượng Hương hay Tôn phu nhân là con gái duy nhất của Tôn Kiên. Bà có 5 người anh trai trong đó anh cả là Tôn Sách và anh hai là Tôn Quyền.
Năm 209 Tôn Thượng Hương được gả cho Lưu Bị nhằm giữ vững mối hòa hiệp trong liên minh Ngô-Thục. Vào lúc đó, bà mới hơn 20 tuổi. Do cả hai bà vợ trước đó của Lưu Bị đều đã mất, Tôn Thượng Hương dần dần kiểm soát nhà và con (Lưu Thiện) của Lưu Bị.
2 năm sau, mối quan hệ giữa Ngô và Thục bắt đầu căng thẳng. Tôn Thượng Hương quay trở về với anh trai của mình là Tôn Quyền. Theo những gì Triệu Vân viết thì bà định mang theo con trai của Lưu Bị là Lưu Thiện với mình. Tuy nhiên đã bị Trương Phi và Triệu Vân chặn lại. Sau khi hai bên thương thuyết, Tôn Thượng Hương để lại Lưu Thiện về nước Ngô. Kể từ đây hôn nhân giữa bà và Lưu Bị chấm dứt. Bà không bao giờ gặp lại Lưu Bị, và sử sách cũng không có nói gì đến chuyện bà tái giá.
Trong Tam quốc diễn nghĩa, bà được miêu tả là người có tính khí nóng nảy và rất cứng đầu. Tiểu thuyết nói rằng bà hay gây rắc rối và thường các tướng sĩ của Lưu Bị phải để mắt đến Tôn phu nhân. Tôn Thượng Hương với tư cách là vợ Lưu Bị cũng hai lần bị sử dụng trong các mưu kế của Chu Du và Tôn Quyền nhằm mục đích chống phá nhà Thục.
6/Chu Du ( tự Công Cẩn ):
Chu Du (175 – 210), tên tự là Công Cẩn, là danh tướng của nước Ngô thời Tam Quốc. Trong bộ truyện Tam Quốc Diễn Nghĩa của nhà văn La Quán Trung có viết rằng do Chu Du đẹp trai và rất giỏi âm luật nên được gọi là Mỹ Chu Lang . Ông là một nhà quân sự tài ba, chuyên về thủy chiến, chức vụ chính thức là Đại Đô Đốc Thủy Quân, nên được gọi là Chu Đô Đốc.
Chu Du nổi tiếng với chiến thắng ở sông Xích Bích trước quân Tào Tháo, là trận chiến lớn nhất thời đó. Năm Chu Du 24 tuổi đánh chiếm Uyển Thành và cùng với Tôn Sách đi cầu hôn 2 cô con gái xinh đẹp của Kiều Tông. Tôn Sách cưới Đại Kiều, còn Chu Du cưới Tiểu Kiều. Năm 200, Tôn Sách chết. Chu Du chuyển từ thành Ba Khâu về Ngô Quận để giúp đỡ Tôn Quyền, lúc ấy còn nhỏ.
Chu Du là người yêu âm nhạc, lễ phép khiêm tốn, nhưng trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, ông bị mô tả như một đứa trẻ ngô nghê và nóng tính, bị Gia Cát Lượng chọc tức 3 lần đến chết. Nhà văn còn viết một câu khá nổi tiếng rằng trước khi chết Chu Du phẫn uất mà than: “Trời đã sinh Du sao còn sinh Lượng?”.
Chu Du có công cực lớn trong việc giúp nhà họ Tôn lập nên Đông Ngô, là khai quốc đại công thần, từng theo phò tá cho cả 3 vị chủ tướng đầu tiên của Ngô.
7/Lã Mông ( tự Tử Minh ) :
Lã Mông (178-219) tự Tử Minh, là vị tướng quân đội của phe Đông Ngô sống vào cuối đời Hán, đầu đời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.
Ông trở thành người đứng đầu của quân đội Đông Ngô sau cái chết của Chu Du và Lỗ Túc và nổi tiếng qua việc chiếm Kinh Châu dẫn đến cái chết của Quan Vũ, người đứng đầu trong ngũ hổ tướng phe Thục Hán Nhân lúc Quan Vũ đi đánh Phàn Thành ở Tương Dương, Lã Mông dùng kế đánh úp Kinh Châu rồi phục binh bắt được Quan Vũ khi ông trên đường chạy trốn về Thành Đô. Quan Vũ bị Tôn Quyền sai đem chém. Chẳng lâu sau đó Lã Mông cũng bệnh mất ở tuổi 41. Do Lã Mông mất cùng năm với Quan Vũ nên tác phẩm Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung hư cấu chuyện Quan Vũ hiện hồn về vật chết Lã Mông.
8/Lục Tốn ( tự Bá Ngô ):
Lục Tốn (183-245), tên tự là Bá Ngô, một quân sư của Đông Ngô trong thời kỳ Tam Quốc ở Trung Quốc.
Ông nổi tiếng qua trận Di Lăng vào năm 222 đánh bại quân Thục Hán của Lưu Bị khiến ông trở thành 1 trong những quân sư nổi tiếng nhất của đời Tam Quốc.
Năm 222, Lưu Bị dẫn 75 vạn quân đánh Đông Ngô báo thù cho Quan Vũ. Lúc này các quân sư hàng đầu của Đông Ngô như Chu Du, Lỗ Túc và Lã Mông đã qua đời nên trọng trách bảo vệ Đông Ngô được giao cho Lục Tốn. Biết Lưu Bị không có kinh nghiệm dùng binh, đóng quân ở nơi tử địa nên Lục Tốn đã dùng hỏa công tiêu diệt 70 doanh trại của Lưu Bị, đánh tan 7 vạn quân Thục. Sau trận này 1 năm Lưu Bị bệnh chết ở thành Bạch Đế.
Sau trận Di Lăng, Đông Ngô và Thục Hán kí hòa ước nên từ năm 222 đến năm 245, Lục Tốn đã nhiều lần đánh đuổi quân Đại Ngụy, bảo vệ thành công Đông Ngô. Năm 234, ông dẫn quân đánh Hợp Phì theo sự nhờ cậy của Khổng Minh nhưng thất bại. Năm 245, ông mất ở tuổi 62
9/Hoàng Cái ( tự Công Phúc ) :
Hoàng Cái (?-?) tự Công Phúc là vị tướng quân đội của nhà Đông Ngô sống vào cuối đời Hán, đầu đời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.
Ông phục vụ cho cả 3 nhà lãnh đạo Đông Ngô là Tôn Kiên, Tôn Sách và Tôn Quyền và nổi tiếng qua chiến công trá hàng đốt chiến thuyền của quân Tào Tháo trong trận Xích Bích dẫn đến thắng lợi của quân Đông Ngô vào năm 208 SCN. Hoàng Cái đã theo phục vụ Tôn Kiên từ những ngày đầu Tôn Kiên lập nghiệp.
Năm 193, Tôn Kiên tử trận tại Kinh Châu, con trưởng của Tôn Kiên là Tôn Sách lên thay. Hoàng Cái cùng Tôn Sách đem quân mở rộng lãnh thổ Giang Đông cho đến tận năm 200 thì Tôn Sách mất, Tôn Quyền lên thay. Hoàng Cái là một vị tướng được quân sĩ kính nể, Tôn Quyền cực kì trọng dụng ông.
Trong những năm phục vụ của mình ông được ban cho nhiều chức tước danh giá.
10/Chu Thái (tự Âu Bình) :
Chu Thái (?-225) tự Ấu Bình là vị tướng quân đội sống vào cuối đời Hán, đầu đời Tam quốc trong lịch sử Trung Quốc.
Ông là tướng của phe Đông Ngô , nổi tiếng trong việc đã nhiều lần cứu Tôn Quyền là vua Đông Ngô thoát khỏi vòng vây.
Năm 200, Tôn Sách mất giao lại Giang Đông cho Tôn Quyền. Năm 215, Tôn Quyền tấn công Hợp Phì. Khi Tôn Quyền bị Trương Liêu, Từ Hoảng vây khốn thì Chu Thái lần nữa cứu Tôn Quyền thoát khỏi vòng vây. Tôn Quyền nhờ có Chu Thái đỡ tên giùm nên không bị gì còn Chu Thái bị tên bắn xuyên hai lần áo giáp, còn vết thương thì vô kể. Lát sau Chu Thái còn lao vào vòng vây cứu Từ Thịnh. Trở về, Tôn Quyền mở một bữa tiệc nhỏ. Trong bữa tiệc ông bảo Chu Thái vén áo lên rồi hỏi thăm từng vết thương, Chu Thái cứ thực tình mà tâu từng vết thương bị khi nào, tại sao. Cứ mỗi vết thương, Tôn Quyền lại ban cho Chu Thái một chén rượu, lát sau Chu Thái say mèm. Sau đó Quyền lại ban cho Thái một cái tán , để ra vào thêm phần quí trọng. Ngòai ra, Chu Thái còn từng cùng Chu Du giải vây thành Di Lăng, cứu nguy cho Cam Ninh.
Năm 222, Lưu Bị dẫn quân đánh Đông Ngô báo thù cho 2 em là Quan Vũ, Trương Phi. Đông Ngô nhờ có Lục Tốn dùng hỏa công đốt 40 doanh trại của Lưu Bị tại Di Lăng nên quân Thục đại bại. Chu Thái tham gia trận chiến này, đã chém chết Man Vương là Sa Ma Kha khi ông kéo quân truy kích quân Thục.
Năm 225, Chu Thái mất tại Giang Đông.
11/Cam Ninh ( tự Hưng Bá ):
Cam Ninh (175-218) tự Hưng Bá là vị tướng quân đội của phe Đông Ngô sống vào cuối đời Hán, đầu đời Tam quốc trong lịch sử Trung Quốc.
Ông nổi tiếng là 1 vị tướng gan dạ và dũng mãnh qua nhiều trận đánh nhưng nổi tiếng nhất là trận Hợp Phì năm 215 giữa Đông Ngô và Đại Ngụy. Cam Ninh sinh năm 175 tại Lâm Giang thuộc Ba quận. khi còn trẻ ông là người thông hiểu về kinh sử, có sức mạnh hơn người, tính lại thích lãng du, thường chiêu tập bọn du đảng, lưng đeo chuông đồng, tung hoành khắp thiên hạ. Ai ai nghe tiếng chuông đều kinh hãi ù té bỏ chạy trốn. Ông còn lấy gấm Tây Xuyên làm buồm thuyền, vì thế người ta gọi là “giặc buồm gấm”.
Về sau, ông hối hận việc làm của mình nên cải tà quy chánh, dẫn thủ hạ đến đầu Lưu Biểu. Thấy Lưu Biểu không làm nổi việc lớn, Ninh muốn sang theo Ðông Ngô , nhưng lại bị Hoàng Tổ giữ lại ở Hạ Khẩu.
Khi Đông Ngô tiến đánh Hạ Khẩu, Hoàng Tổ đã nhờ Cam Ninh bắn chết tướng Đông Ngô là Lăng Tháo (là cha của Lãng Thống, một tướng Ngô khác) mới giữ được thành nhưng về sau, Tổ lại bạc đãi Ninh. Viên Đô Ðốc của Hoàng Tổ là Tô Phi nhiều lần khuyên Hoàng Tổ trọng dụng Cam Ninh nhưng Hoàng Tổ cho Ninh chỉ là tên cướp biển nên coi khinh. Về sau, Cam Ninh đầu hàng Đông Ngô và đém quân đánh trở lại Hoàng Tổ vào năm 208. Hoàng Tổ bị Cam Ninh giết chết và cả vùng Giang Hạ thuộc về Đông Ngô. Cùng năm đó, Tào Tháo đem 83 vạn quân tiến đánh Đông Ngô nhưng thất bại ở trận Xích Bích.
Cam Ninh cũng tham gia trận Xích Bích và lập được nhiều công trạng. Sau đó, ông theo Chu Du tấn công Nam Quận với ý đồ đoạt Kinh Châu của Tào Tháo. Chu Du sai ông tấn công thành Di Lăng nhưng sau khi chiếm thành ông bị vây hãm trong thành, may nhờ có Chu Thái và Chu Du đến cứu. Sau những trận đánh này danh tiếng của Cam Ninh vang danh khắp nơi.
Ông mất năm 218 ở tuổi 43 vì bệnh. Theo Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung thì ông mất năm 222 trong trận Di Lăng bởi tướng Phiên là Sa Ma Kha.
12/Lăng Thống ( tự Công Trực ) :
Lăng Thống (189 – 237) tên chữ Lăng Công Tục, là một tướng của Đông Ngô thời Tam Quốc, Trung Hoa. Lăng Thống sinh ở Dư Hàng, Chiết Giang.
Ông cùng với cha là Lăng Tháo theo Tôn Sách khi Sách đi đánh Nghiêm Bạch Hổ và Vương Lãng Khi Tôn Quyền đi đánh Hoàng Tổ, cha ông bơi thuyền bị Cam Ninh bắn chết. Lúc này Lãng Thống mới có 15 tuổi mà đã ra sức cướp được xác cha về. Sau đó, Cam Ninh hàng Tôn Quyền. Mang thù hằn trong lòng, ông luôn tìm cách giết Cam Ninh.
Về sau, đánh nhau với Nhạc Tiến ở Hợp Phì, ông bị Tào Hưu lén bắn tên trúng ngựa làm ông ngã xuống đất, Nhạc Tiến định vác giáo lại đâm thì Cam Ninh đã kịp bắn tên trúng ngay trán Nhạc Tiến để cứu ông. Từ đó ông không còn thù hằn gì với Cam Ninh nữa. Sau khi theo quân đánh An Huy, ông được phong Đãng Khấu Trung Lang Tướng, Lĩnh Phái Tướng, cùng Lã Mông đoạt được quận Kinh Châu của Lưu Bị.
Lãng Thống mất năm 49 tuổi do bệnh nặng.
13/Thái Sử Từ ( tự Tử Nghĩa ) :
Thái Sử Từ (166-206) là một tướng của nhà Đông Ngô dưới thời Tam Quốc, Trung Hoa. Ông là người ở Hoàng Huyện, họ là Thái Sử tên là Từ, tự là Tử Nghĩa.
Mẹ của Thái Sử Từ vì ân nghĩa với Khổng Dung (cháu mấy đời của Khổng Tử) nên sai Từ đi đánh Quản Hợi.Sau trận đánh này, ông đã được Khổng Dung đem vàng lụa tạ ơn nhưng ông không nhận. Ông trở về hướng nam để giúp thứ sử Dương Châu là Lưu Do, người cùng quận với Từ. Suốt thời gian đó, Lưu Do đang chống lại Tôn Sách. Tôn Sách có trong tay Ngọc Tỷ (Ấn Vua), nhưng lại không có binh quyền thì cái quyền lực ảo đó không nghĩa lý gì, chi bằng cầm nó cho Viên Thiệu mượn ba ngàn quân thực về Giang Đông dựng nghiệp. Khi về đến Giang Đông đánh trận đầu với Thái Sử Từ cả ngày, lúc đầu còn dùng kích, giáo về sau quăng cả vũ khí đánh nhau bằng tay đến rách cả áo giáp vẫn không phân được thắng bại. Hôm sau Tôn Sách dùng mưu bắt sống được Thái Sử Từ. Thấy Thái Sử Từ là một tướng văn võ song toàn nên Tôn Sách đã phân giải mọi điều để chiêu dụ Thái sử Từ về dưới trướng mình.
Thái Sử Từ trở bệnh rồi mất trước trận đánh ở Hợp Phì. Ông được mai táng ở núi Cốc Sơn. Tôn Quyền đem con Thái Sử Từ là Thái Tử Hoàng làm con nuôi. Có người nói ông bị Trương Liêu giết trong trận đó.
14/Song Kiều ( 2 chị em Đại Kiều và Tiểu Kiều ) :
Đại Kiều là người chị, vợ của Tôn Sách.
Tiểu kiều là người em, vợ của Chu Du.
Năm Chu Du 24 tuổi đánh chiếm Uyển Thành và cùng với Tôn Sách đi cầu hôn 2 cô con gái xinh đẹp của Kiều Tông. Tôn Sách cưới Đại Kiều, còn Chu Du cưới Tiểu Kiều.