Text Link Text Link: truyen tranh 18 | Tin Game | Tin Xe | Tin Làm Đẹp | w88 | 188 | 188bet | truyen tranh adult | https://bossnhacai.com/ | 333666 | tải sunwin | mb66
Kết quả 1 đến 5 của 5

Chủ đề: Bộ Ảnh các anh hùng Tam Quốc - tặng anh em mê tam quốc chí đây

  1. #1
    Ngày tham gia
    Nov 2007
    Tuổi
    35
    Bài viết
    1,051
    Cám ơn
    390
    Được cám ơn 591 trong 307 bài viết
    Mức độ nổi tiếng
    160

    Rofl Bộ Ảnh các anh hùng Tam Quốc - tặng anh em mê tam quốc chí đây


    pass unlock : 4r.ketnoitatca.net
    http://i926.photobucket.com/albums/a...h/log/kntc.png
    Kiếm tiền bằng cách trao đổi like facebook ^^
    Đăng ký tham gia và Ủng hộ mình nhé : http://abclike.com/?ref=9828

  2. #2
    Ngày tham gia
    Oct 2010
    Tuổi
    30
    Bài viết
    9
    Cám ơn
    1
    Được cám ơn 6 trong 4 bài viết
    Mức độ nổi tiếng
    0

    Mặc định Trả lời: Bộ Ảnh các anh hùng Tam Quốc - tặng anh em mê tam quốc chí đây

    để tui bổ xung nhé :

    I-PHE THỤC :
    1/Lưu Bị ( tự Huyền Đức ):
    Hán Chiêu Liệt Đế Lưu Bị (161-223) là người đã xây dựng nước Thục Hán thời Tam Quốc.Lưu Bị tự là Huyền Đức, ông là con cháu đời sau của Trung Sơn Tĩnh Vương Lưu Thắng, con Hán Cảnh đế. Ông thích kết giao với người hào kiệt, cùng Quan Vũ, Trương Phi đối xử với nhau rất tốt. Ông nhờ tham gia trấn áp khởi nghĩa quân Khăn vàng mà nổi lên, từng theo Công Tôn Toản tham gia quân Quan Đông đánh Đổng Trác.
    Lưu Bị trong thời gian trước khi gặp Khổng Minh thì phải đi nương nhờ nhiều người. Trong đó có Công Tôn Toản, Đào Khiêm, Viên Thiệu và cả Tào Tháo.

    Năm 207, Gia Cát Lượng cùng Lưu Bị bàn về tình hình thiên hạ, kiến nghị Lưu Bị liên kết với Tôn Quyền ở Ích Châu, và chống họ Tào. Từ đó lấy Kinh Châu, Lưu Bị coi cuộc đối thoại đó là tư tưởng chiến lược thống nhất thiên hạ.

    Sau này để củng củng cố mối quan hệ Thục-Ngô, Tôn Quyền gả em gái của mình là Tôn Thượng Hương cho Lưu Bị.

    Năm 219, quân Lưu Bị chiếm được Hán Trung, giết được Hạ Hầu Uyên, và tự xưng là Hán Trung Vương. Ông phong Ngũ Hổ Tướng gồm có: Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Mã Siêu và Hoàng Trung.
    Năm 222, ông bị bệnh mất ở thành Bạch Đế , thọ 62 tuổi. Ông được truy tôn là Hán Chiêu Liệt đế. Con trưởng là Lưu Thiện ( tức A Đẩu ) lên kế vị, tức là Hán Hậu Chủ.

    Lưu Bị là một nhà lãnh đạo có sức hút và rất giỏi thu phục lòng người. Ông có trong tay khá nhiều nhân tài, nhưng lại là một tướng lĩnh rất kém. Lưu Bị nổi tiếng là “tướng thua luôn”. Quả thật trận nào do Lưu Bị cầm quân là chắc chắn thua, cho dù ít hay nhiều quân. Trong trận đánh cuối cùng của ông, mặc dù quân Thục đông hơn quân Ngô nhiều, Lưu Bị đã bị Lục Tốn đánh bại, nướng sạch toàn bộ quân sĩ trong nước.


    2/Gia Cát Lượng ( tự Khổng Minh, còn gọi là Ngoạ Long hay Phục Long ):
    Gia Cát Lượng (181–234) là vị quân sư và đại thần của nước Thục thời hậu Hán. Ông là một chính trị gia, nhà quân sự, học giả, kỹ sư lỗi lạc.

    Gia Cát Lượng, tự là Khổng Minh. Ông mồ côi từ bé, thuở trẻ thường tự ví tài mình như Quản Trọng, Nhạc Nghị. Sau tị nạn sang Kinh Châu rồi đến ở đất Nam Dương thuộc vùng Long Trung, chỗ ở có trái núi Ngọa Long cương, nhân thế tự gọi là Ngọa Long tiên sinh, tự mình cày ruộng, thích làm ca từ theo khúc “Lương Phủ Ngâm“.

    Lưu Bị 3 lần thân đến Long Trung mời Khổng Minh ra giúp, tôn ông làm quân sư. Lúc bấy giờ là năm 208, Lưu Bị 47 tuổi, Gia Cát Lượng chỉ mới 27 tuổi.

    Rất nhều chiến công hiển hách của nhà Thục nhờ mưu lược của Gia Cát Lượng có thể điểm qua như:

    - Trận Đồi Bác Vọng
    - Trận Tân Dã
    - Trận Xích Bích và việc đoạt 10 vạn mũi tên của Thào Táo
    - Khổng Minh cầu gió giúp Chu Du
    - Dùng mưu bắt Trương Nhiệm
    - 7 lần bắt Mạnh Hoạch
    - Thu phục Khương Duy
    - Dùng không thành kế đuổi Tư Mã Ý

    Năm 234, do khó nhọc mà Gia Cát Lượng sinh bệnh rồi mất, lúc bấy giờ ông mới 54 tuổi, được phong tặng là Trung Vũ Hầu đời thường gọi là Gia Cát Vũ Hầu. Ông mất mà vẫn không trung hưng được nhà Hán, nước vẫn ở thế chân vạc chia ba. Ba mươi năm sau khi ông mất, Lưu Thiện đầu hàng nước Ngụy, nước Thục bị diệt vong.

    Suốt hai đời vua là Lưu Bị và Lưu Thiện, mọi việc chính trị, quân sự và kinh tế ở Thục đều do một tay Khổng Minh chủ trương và thi hành. Ông giỏi về binh thư binh pháp, có tài về nội trị, ngoại giao, được xem là văn võ kiêm toàn, tài đức lưỡng bị… nên được hậu thế gọi là “vạn đại quân sư”, coi là một tấm gương sáng cho muôn thuở.



    3/Quan Vũ ( tự Vân Trường, em kết nghĩa thứ 2 của Lưu Bị, 1 trong Ngũ Hổ Tướng ) :
    Quan Vũ (162-219), tự Vân Trường cũng được gọi là Quan Công. Ông là một vị tướng quân đội thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Hoa. Ông là người đã góp công lớn vào việc thành lập nhà Thục, với Lưu Bị là vị hoàng đế đầu tiên.

    Quan Công bị tướng Ngô là Lã Mông dùng kế “bạch y độ giang” lừa lấy Kinh Châu, không được tiếp viện và bị bắt sống ở phía bắc Mạch Thành (ở phía đông nam của Đương Dương, Hồ Bắc ngày nay). Tôn Quyền dụ hàng ông không được nên đã giết Quan Vũ. Khi chết ông 58 tuổi.

    Ông cũng được thờ cúng ở nhiều nơi với tượng mặt đỏ, râu dài, tay cầm cây thanh long đao, cưỡi ngựa Xích Thố. Tương truyền thanh long đao của ông nặng 82 cân (khoảng 18 kg ngày nay). Trong khi dân gian xem ông như một biểu tượng của tính hào hiệp, trượng nghĩa thì các nhà sử học cũng phê phán ông về các tính kiêu căng, ngạo mạn.



    4/Trương Phi ( tự Dực Đức, em kết nghĩa thứ 3 của Lưu Bị, 1 trong Ngũ Hổ Tuớng ) :
    Trương Phi (?-221) là một danh tướng của nước Thục thời Tam Quốc. Ông đã cùng với Lưu Bị và Quan Vũ kết bái làm huynh đệ trong vườn đào. Ông là em út trong ba người.

    Trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Trương Phi tự là Dực Đức, quê ở Trác Quận nước Yên. Ông đã theo phò Lưu Bị từ thuở kết nghĩa vườn đào.

    Ông là một người rất khẳng khái, bộc trực và rất nóng nảy. Ông đã đóng góp rất nhiều cho sự ra đời của nước Thục. Ông nổi tiếng với võ nghệ siêu phàm cùng với sự dũng cảm coi thường cái chết. Ông thật sự là nỗi khiếp đảm của quân thù. Như trận đánh cầu Trường Bản, ông đã quát mấy tiếng khiến Tào Tháo hoảng sợ mà lui quân. Khi ấy ông chỉ có vài mươi kị sĩ còn Tào Tháo có trăm vạn hùng binh.

    Ngoài ra, có thể nói ông là một trong 2 tướng có thể đấu ngang ngửa với Lã Bố cùng với Hứa Chử. Trong trận Hổ Lao, ông đã đấu với Lã Bố hơn 150 hiệp bất phân thắng bại để cứu Công Tôn Toản. Tổng cộng ông đã đấu với Lã Bố 4 trận, tất cả gần 500 hiệp và đều bất phân thắng bại.

    Cũng chính vì tính nóng nảy của mình mà ông đã chuốc họa sát thân. Do nôn nóng báo thù cho anh là Quan Vũ bị quân Đông Ngô hại nên ông thường đánh đập quân sĩ. Trong đó có hai tên hạ quan dưới trướng là Trương Đạt và Phạm Cương, chúng đã âm thầm sát hại ông vì lo sợ bị ông chém đầu vì ko hoàn thành quân lệnh ông giao là phải lo quân trang cờ xí màu trắng cho toàn quân của ông mặc để tang anh là Quan Vũ trong cuộc tấn công báo thù quân Đông Ngô. Đêm đó ông say rượu và bị sát hại. Ông mất ở tuổi 55.
    Truơng Phi trong con mắt nhiều người là 1 vị tướng có vẻ như hữu dũng vô mưu nhưng hoàn toàn ko phải như vậy. Ông cũng là 1 tướng có mưu lược dù nó ko nổi bật như tài năng võ nghệ của mình.



    5/Triệu Vân ( tự Tử Long, 1 trong Ngũ Hổ Tuớng ) :
    Triệu Vân (168-229), tự là Tử Long, là một vị tướng thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Hoa. Ông là người đã góp công lớn vào việc thành lập nhà Thục, với Lưu Bị là vị hoàng đế đầu tiên. Ông được phong chức Hổ uy Tướng quân và đứng thứ ba trong Ngũ Hổ Tướng của nhà Thục

    Triệu Vân cao khoảng 1,92 m (6,3 bộ), mày rậm mắt to, uy phong lẫm liệt, giỏi võ nghệ và có tài thao lược. Ông theo về với Công Tôn Toản trong một lần cứu Công Tôn Toản thoát chết. Sau đó, Triệu Vân được xếp dưới quyền trực thuộc của Lưu Bị, người mà khi ấy chỉ là bộ tướng của Công Tôn Toản, giữ chức Phiêu kỵ tướng quân. Lưu Bị có vài nghìn kỵ binh, và Triệu Vân được điều đến trong hàng ngũ này. Từ đó ông quan hệ rất gắn bó với Lưu Bị. Lưu Bị phái Triệu Vân bí mật tuyển mộ thêm quân để tăng cường cho đội quân trực thuộc của mình. Kể từ đây Triệu Vân chính thức bỏ Công Tôn Toản theo phò Lưu Bị.

    Năm 208, Lưu Bị giao tranh với Tào Tháo thất bại và bị đuổi chạy qua Trường Bản. Trong trận Trường Bản thì Triệu Vân đã liều mạng sống bảo vệ gia quyến Lưu Bị, cứu được con trai Lưu Bị là Lưu Thiện (A Đẩu), tạo nên điển tích Triệu Tử Long một ngựa cứu ấu chúa nổi tiếng đến ngày nay.Năm 229, Triệu Vân bị bệnh mất ở Hán Trung, quân sĩ nước Thục vô cùng nuối tiếc. Ông được Lưu Thiện truy phong làm “Thuận Bình hầu” năm 261.

    Được biết đến như một chiến binh vĩ đại, Triệu Vân hội tụ đủ các bản chất của những anh hùng trong thời đại ông. Mặc dù Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung chỉ đặc biệt miêu tả Triệu Vân võ công cao cường, thực ra ông còn đáng được ngưỡng mộ bởi tài thao lược khôn khéo, lòng trung thành tận tụy và tính cách thẳng thắn, sự dũng cảm phi thường. Chính Triệu Vân đã dám đứng ra can gián Lưu Bị tiến đánh Đông Ngô để trả thù bằng những lý do sáng suốt.


    6/Mã Siêu ( tự Mạnh Khởi, 1 trong Ngũ Hổ Tuớng ):
    Mã Siêu (176-223), tự Mạnh Khởi, là một vị tướng của phe Thục Hán sống vào cuối đời nhà Hán. Ông có biệt danh là “Cẩm Mã Siêu” (tức Mã Siêu tráng lệ) nhờ khả năng chiến trận và bộ áo giáp của ông. Ông là một trong ngũ hổ tướng của nhà Thục Hán.

    Mã Siêu sinh năm 176 tại Lũng Môn. Ông là con trưởng của Mã Đằng, thứ sử Tây Lương. Mã Siêu được miêu tả trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung là mặt đẹp như ngọc, mắt sáng như sao, mình hổ tay vượn, bụng beo lưng sói, lúc ra trận mình mặc hổ phù, tay cầm trường thương, oai phong lẫm liệt vô cùng.

    Năm 211, Tào Tháo lấy danh nghĩa thiên tử triệu Mã Đằng về triều. Mã Đằng bèn tìm kế phản Tào Tháo nhưng kế hoạch bại lộ, Mã Đằng và 2 con Mã Hưu, Mã Thiết bị Tào Tháo giết. Mã Đại là cháu Mã Đằng trốn về được báo cho Mã Siêu. Mã Siêu tức giận hợp cùng Hàn Toại và bộ tướng là Bàng Đức kéo 20 vạn quân báo thù cho cha.Tào Tháo thực hiện kế phản gián, khiến Mã Siêu đánh Hàn Toại. Nhân lúc quân Tây Lương rối loạn, Tào Tháo phản công, đánh bại Mã Siêu. Mã Siêu cùng Bàng Đức, Mã Đại mở vòng vây chạy thoát.

    Năm 214, Mã Siêu nhận lệnh của Trương Lỗ tiến đánh ải Hà Manh để cứu viện cho Lưu Chương đang bị Lưu Bị tấn công. Mã Siêu đến Hà Manh quan, đánh nhau một trận kinh hồn với Trương Phi, sau Lưu Bị nhờ Lý Khôi theo kế Khổng Minh đến dụ hàng Mã Siêu. Mã Siêu liền bằng lòng qui thuận, Lưu Bị đích thân đi đón rước, đãi vào bậc thượng tân. Cuối cùng, Mã siêu đem quân đến Thành Đô, bảo Lưu Chương ra hàng, Lưu Bị chiếm được Ích Châu, phong Mã Siêu làm Bình Tây tướng quân thống lĩnh toàn bộ kị binh.

    Năm 222, Mã Siêu bệnh mất, hưởng thọ 46 tuổi



    7/Hoàng Trung ( tự Hán Thăng, 1 trong Ngũ Hổ Tuớng ):
    Hoàng Trung (148-220), là một vị tướng quân đội thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Hoa. Hoàng Trung được miêu tả là một lão tướng đã gần 60 tuổi nhưng sức địch muôn người, đã lập nhiều công lao cho Lưu Bị và là một trong Ngũ hổ tướng của quân Thục.

    Ông tự Hán Thăng, sinh năm 148, quê ở Nam Dương. Lúc đầu ông theo Lưu Biểu, cùng với Lưu Bàn trấn thủ Trường Sa; về sau theo Hàn Huyền. Khi Lưu Bị đem quân đến lấy Kinh Châu, sai Quan Vũ đánh Trường Sa, chiếm được Trường Sa và tha không giết Hoàng Trung. Từ đó, Hoàng Trung theo về với Lưu Bị.
    Năm 217, Lưu Bị và Tào Tháo đánh nhau tại Hán Trung, Hoàng Trung chém chết Hạ Hầu Uyên, tướng tâm phúc của Tào Tháo tại núi Định Quân.

    Năm 222, Lưu Bị dẫn 70 vạn đại quân đánh Đông Ngô để báo thù cho Quan Vũ, Trương Phi. 2 người con trai của Quan Vũ và Trương Phi là Quan Hưng và Trương Bào liên tiếp lập công nên Lưu Bị khen ngợi và bảo các tướng theo mình từ trước nay đã già cả hết, không còn làm được gì. Hoàng Trung nghe thế tức giận liền dẫn quân đến Di Lăng nghênh chiến quân Ngô. Hoàng Trung gặp Phan Chương, chém chết tướng Phan Chương là Sư Tịch, Phan Chương chống cự không nổi bỏ chạy. Hoàng Trung rượt theo, không ngờ bị Phan Chương bắn một mũi tên, Hoàng Trung né khỏi, rồi lại rượt theo nữa.Rượt được chừng vài dặm, xảy có tiếng chiêng trống nổi dậy, hai đạo binh mai phục ào tới, một phía là Chu Thái, một phía là Hàn Đương xông ra một lượt. Phía trước Phan Chương phủ vây Hoàng Trung vào giữa. Ông cố sức chống cự lại tiếp tục bị trúng tên, may nhờ có Quan Hưng, Trương Bào đến cứu.

    Lưu Bị nghe tin Hoàng Trung trọng thương thì đến thăm và nhận lỗi. Hoàng Trung bảo mình đã già, có chết cũng vừa, xin Lưu Bị bảo trọng long thể để chiếm Trung Nguyên. Đến nửa đêm, Hoàng Trung tắt thở. Lưu Bị đau buồn, sai đưa về Thành Đô chôn cất tử tế. Ông qua đời ở tuổi 72.



    8/ Bàng Thống ( tự Sỹ Nguyên, hay còn gọi là Phụng Sồ):
    Bàng Thống (178-213), đạo hiệu Phượng Sồ tiên sinh, là quân sư nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa, sống vào cuối thời nhà Hán, đầu thời Tam quốc, thường được người đời sau so sánh là tài năng ngang với Khổng Minh, người sống cùng thời với ông.

    La Quán Trung miêu tả Bàng Thống trong Tam quốc diễn nghĩa là “người mày rậm, mũi gồ, mặt đen, râuhình dung xấu xí”. Tư Mã Đức Tháo nhận xét về Bàng Thống như sau: “Nếu được một trong hai người Ngọa Long (tức, Khổng Minh) hoặc Phụng Sồ (tức Bàng Thống) thì có thể định hưng được thiên hạ“.
    Lúc đầu, Bàng Thống ở Giang Nam theo Tôn Quyền, trong trận Xích Bích từng theo kế phản gián của Chu Du hiến kế cho Tào Tháo dùng xích sắt ghép các thuyền lại thành một cụm để tránh cho quân sĩ say sóng nhưng thực chất là để dùng kế hỏa công. Nhờ Bàng Thống mà khi Chu Du sử dụng hỏa công, thuyền của Tào Tháo tập trung lại thành một cụm nên không chạy thoát được, cháy rụi hết. Sau khi Chu Du mất, Lỗ Túc tiến cử Bàng Thống cho Tôn Quyền nhưng ông không được Tôn Quyền trọng dụng nên đến Kinh Châu theo Lưu Bị.

    Năm 212, Lưu Chương, thứ sử Ích Châu bị Trương Lỗ từ Hán Trung uy hiếp nên mời Lưu Bị đem quân từ Kinh Châu đến cứu. Bàng Thống với vai trò là quân sư cùng Lưu Bị dẫn 5 vạn quân vào Tây Xuyên.Để đánh chiếm Lạc Thành, quân Kinh Châu chia làm hai đường. Bàng Thống cùng Ngụy Diên làm tiên phong tiến theo con đường nhỏ phía Nam, Lưu Bị theo con đường lớn phía Bắc. Tuy nhiên, Bàng Thống vì chủ quan khinh địch nên lọt vào trận mai phục của Trương Nhiệm, tướng Tây Thục nên cả người lẫn ngựa chết dưới chân gò Lạc Phượng.

    Ông chết năm 35 tuổi. Người đời sau theo chuyện đó cho rằng Bàng Thống vì ganh tị với Khổng Minh nên mất sớm, nếu Bàng Thống còn sống thì Lưu Bị có thể đã thống nhất được thiên hạ.



    9/Ngụy Diên( tự Văn Trường ) :
    Ngụy Diên(175-234) là một tướng của Thục Hán trong thời kỳ Tam Quốc của lịch sử Trung Hoa.

    Theo Tam Quốc Diễn Nghĩa, Ngụy Diên ban đầu là một viên tướng có chức vụ trung bình của Lưu Biểu.
    Ngụy Diên đã đầu hàng và theo phò Lưu Bị sau khi Lưu Bị chiếm được Trường Sa khoảng năm 209.

    Theo Tam Quốc Diễn Nghĩa, Ngụy Diên còn là một tướng thường mang lòng phản trắc, phản chủ cầu vinh. Lúc Gia Cát Lượng qua đời, Ngụy Diên tạo phản nhưng đã bị Mã Đại và Trương Vĩ giết chết theo kế của Gia Cát Lượng trước khi mất đã truyền cho.

    Theo nhiều ý kiến thì Gia Cát Lượng có thành kiến không tốt với Ngụy Diên nên thường hay đem lòng nghi ngờ lòng trung thành của ông. Dù có lần Ngụy Diên hiến kế hay nhưng Gia Cát Lượng vì thành kiến cá nhân nên không nghe theo. Kết quả thực tế cho thấy 6 lần Gia Cát Lượng ra Kỳ Sơn không theo kế của ông lần nào và đều không thành công.



    10/Quan Bình ( con nuôi Quang Vũ ) :
    Quan Bình ( ?-219) là vị tướng của Thục Hán sống vào cuối đời Hán, đầu đời Tam Quốc trong lịch sử Trung Hoa. Quan Bình chỉ là con nuôi của Quan Vũ.Thân phụ của ông là Quan Định, một người dân thường. Năm 200, Quan Vũ sau khi qua 5 ải, chém 6 tướng đến Hà Bắc tìm Lưu Bị thì ghé qua nhà Quan Định. Quan Định bèn xin Quan Vũ nhận Quan Bình theo. Quan Vũ chưa có con nên nhận. Khi đó, Quan Bình mới 18 tuổi.

    Năm 219, Ngô đánh úp Kinh Châu, Từ Hoảng kéo quân đến giải vây Phàn Thành đánh bại Quan Bình, khiến Quan Vũ phải kéo về Kinh Châu tuy nhiên Kinh Châu đã mất nên đến ở tạm Mạch Thành.
    Quan Vũ và Quan Bình trên đường chạy về Tây Xuyên bị quân Ngô bắt được, cả 2 cha con đều bị hành hình. Quan Bình mất năm 219, khi mất ông khoảng 29 tuổi.



    11/ Trương Tịnh Thái ( con gái Trương Phi ) :
    Trương Tịnh Thái là con gái của Trương Phi.

    Trương Phi lấy con gái của Hạ Hầu Uyên làm vợ, khi cô bị quân của Trương Phi bắt được trong một lần vào rừng kiếm củi. Họ có 2 con gái. Con gái lớn trở thành hoàng hậu Thục Hán sau khi cưới Lưu Thiện với Gia Cát Lượng làm ông mai. Sau khi con gái lớn của Trương Phi mất vì bệnh, Gia Cát Lượng lại một lần nữa làm mai để cưới con gái nhỏ của Trương Phi cho Lưu Thiện. Cô em nối tiếp cô chị làm hoàng hậu nước Thục.



    12/ Hoàng Nguyệt Anh ( vợ Gia Cát Lượng ) :
    Hoàng Nguyệt Anh là vợ của Khổng Minh Gia Cát Lượng. Tương truyền bà là một người phụ nữ không xinh đẹp nhưng rất có tài và giúp đỡ rất nhiều cho Khổng Minh.

    Thủa nhỏ Gia Cát Lượng say mê đọc sách, ông đi khắp nơi để tìm sách đọc. Nghe nói ở Ngọa Long cương có viên ngoại họ Hoàng bụng chứa đầy theo lược, trong nhà giữ rất nhiều sách cổ kim kỳ lạ, và từ xưa đến nay chưa hề truyền ra ngoài.

    muốn gần gũi với Hoàng viên ngoại, nên Gia Cát Lượng mới dời nhà đến Ngọa Long cương này. Hoàng viên ngọai có bầy ngỗng, mỗi ngày ông chăn ngỗng bên bờ sông dưới Ngọa Long cương. Gia Cát Lượng bèn dựng một nhà tranh ở dưới Ngọa Long cương. Ban ngày ông trồng trỉa, ban đêm đọc sách, có lúc ông bàn luận chuyện cổ kim với Hoàng viên ngoại khi ông tới chăn ngỗng. Hai người rất tâm đầu ý hợp, nhưng Gia Cát Lượng vẫn chưa đề cập đến chuyện mượn sách. Hoàng viên ngoại chú ý tới người trai trẻ đa tài này, và lo xa khi về già không có người nối dõi. Ông bèn nhờ người mai mối, đem con gái mình hứa gả cho Gia Cát Lượng.

    Về sau này Hoàng Nguyệt Anh được liệt vào Ngũ xú Trung Hoa là những người phụ nữ xấu xí, nhưng nhờ họ mà quốc thái dân an , bá tánh cơm no áo ấm. Trái lại, Tứ đại mỹ nhân của Trung Hoa (Tây Thi, Điêu Thuyền, Vương Chiêu Quân, Dương Quý Phi) 4 người thì đã có 2 người làm cho nước mất nhà tan



    13/ Khương Duy ( tự Bá Ước, học trò Gia Cát Lượng ) :
    Khương Duy (202-264), là một tướng và sau này là thừa tướng của Thục Hán dưới thời trị vì của vị hoàng đế thứ hai của nhà Thục Hán, sau khi Gia Cát Lượng qua đời. Có thể coi Khương Duy như đệ tử của Gia Cát Lượng. Khương Duy ban đầu là một viên tướng nhỏ của quân Tào Ngụy nhưng đã được Gia Cát Lượng chiêu dụ trong đợt Bắc Phạt lần đầu đánh Tào Ngụy năm 228.

    Năm 234, Gia Cát Lượng qua đời thì Khương Duy thay thầy nắm giữ trọng trách quân sự, là trụ cột cuối cùng giữ vững cho giang sơn Thục Hán. Sau đó từ năm 247, Khương Duy liên tiếp tiến hành các cuộc Bắc phạt với mục đích kế thừa di nguyện của ân sư. Do nhiều nguyên nhân... những cuộc bắc phạt đó ko có thành công lớn nhưng ít ra Khương Duy cũng đã khiến cho kẻ địch phải dè chừng, nhà Thục vẫn còn an toàn trong thời gian dài.

    Năm 263, Tư Mã Chiêu quyết định tiến công Tây Thục, Đông Ngô thống nhất thiên hạ, sai hai tướng Chung Hội, Đặng Ngãi chỉ huy. Khương Duy cùng các tướng tử thủ tại Kiếm Các, vốn dĩ đã khiến cho quân địch chán nản ko thể tiến thêm bước nào nữa thì bất ngờ nhận được chiến thư từ hậu chủ Thục Hán Lưu Thiện ra lệnh giải giáp quy hàng. Khương Duy đành nhẫn nhịn, trá hàng với Chung Hội. Biết rõ giữa 2 tên này có mâu thuẫn, Khương Duy thừa cơ ly gián để Chung Hội loại trừ Đặng Ngãi, sau đó xúi giục Chung Hội làm phản tạo cơ hội khôi phục nhà Thục. Đáng tiếc âm mưu ko thành, Khương Duy đành phải tự vẫn.


    Lần sửa cuối bởi bloodrose041093, ngày 28-11-2010 lúc 05:20 PM.

  3. Đã có 2 thành viên gởi lời cám ơn đến bloodrose041093 vì bài viết hữu ít này:

    mylove (28-11-2010),TuấnDương (28-11-2010)

  4. #3
    Ngày tham gia
    Oct 2010
    Tuổi
    30
    Bài viết
    9
    Cám ơn
    1
    Được cám ơn 6 trong 4 bài viết
    Mức độ nổi tiếng
    0

    Mặc định Trả lời: Bộ Ảnh các anh hùng Tam Quốc - tặng anh em mê tam quốc chí đây

    II-PHE NGỤY:
    1/ Tào Tháo ( tự Mạnh Đức ):
    Tào Tháo (155–220), tự là Mạnh Đức, là một nhân vật quan trọng ở thời Tam Quốc, là người đặt nên cơ sở cho thế lực quân sự cát cứ ở miền Bắc Trung quốc, lập nên chính quyền nhà Ngụy.

    Tào Tháo nguyên gốc là họ Hạ Hầu. Cha ông là Hạ Hầu Tung, do làm con nuôi của một vị hoạn quan là Tào Đằng, nên đổi họ lại thành Tào Tung.

    Sau khi thống nhất Trung Nguyên, Tào Tháo kéo xuống phía nam. Tuy nhiên, do chủ quan khinh địch và thiếu kinh nghiệm thủy chiến nên trong trận chiến Xích Bích, đội quân Tào Tháo bị thất bại trước liên quân của Lưu Bị và Tôn Quyền, đổ vỡ kế hoạch thống nhất Trung Quốc. Từ đó, Tào Tháo quyết định tập trung xây dựng nền tảng chính trị ở phía Bắc và chờ đợi thời cơ.

    Năm 211, Tào Tháo tiêu diệt thế lực họ Mã ở Tây Lương, thống nhất hoàn toàn Trung Nguyên. Năm 215, quân Tào đánh chiếm Hán Trung của Trương Lỗ, nhưng đến năm 219 lại bị quân Thục chiếm mất.

    Với chiêu bài “Mượn tiếng thiên tử để ra lệnh cho chư hầu”, Tào Tháo đưa Hán Hiến đế để làm bình phong thực hiện các quyết định chính trị, quân sự. Táo Tháo đã lập đô ở Hứa Xương, khống chế triều đình, tự xưng Thừa tướng (năm 208), thăng dần đến tước Ngụy công rồi Nguỵ vương.

    Quan điểm của Tào Tháo đó là “Thà giết lầm còn hơn tha lầm” “Ta thà phụ thiên hạ chứ không để thiên hạ phụ ta” (hoàn toàn trái ngược với chủ trương của Lưu Bị “thà chết chứ không làm điều bất nghĩa”), chính vì vậy Tào Tháo luôn e dè và xem Lưu Bị là kẻ thù nguy hiểm nhất của mình.

    Năm 220, ông mất, thọ 66 tuổi. Người con cả kế vị là Tào Phi ép vua Hán Hiến Đế nhường ngôi, lập ra nhà Nguỵ, đóng đô ở Lạc Dương. Đó là vua Nguỵ Văn đế. Tào Tháo được truy tôn là Nguỵ Vũ Đế.

    Nhưng chỉ hơn 20 năm sau, một thuộc hạ khác của Tào Tháo là Tư Mã Ý cũng đã dùng lại thủ đoạn của Tào Tháo để khống chế triều đình Ngụy tạo nên cơ sở để lập nên nhà Tấn. Bản thân Tào Tháo trước kia từng tiên đoán Tư Mã Ý cũng là một kẻ gian hùng nhưng không có lý do chính đáng để buộc tội ông ta.
    Có thể nói rằng Tào Tháo là một nhân vật giỏi nhất thời Tam Quốc bấy giờ. Chính ông đã tạo ra cơ sở thành lập nên ba vương triều trong lịch sử Trung Hoa.


    2/ Tào Phi ( tự Tử Hoàn, vua đầu tiên của nước Ngụy ) :
    Tào Phi (187-226), chính thức được gọi là Tào Ngụy Văn Đế, tên tự Tử Hoàn, sinh ra ở huyện Tiêu. Ông là con thứ hai của Tào Tháo và là Hoàng đế đầu tiên và người sáng lập thực sự của Tào Ngụy.

    Tào Phi là con trai của Tào Tháo và thứ phi của ông là Biện Thái Hậu (sau này là vợ chính của Tào Tháo). Trong số anh em của mình, Tào Phi là người sắc sảo nhất. Thay vì dùy mài kinh sử hay thao luyện quân binh, Tào Phi thường có mặt trong triều với các quan chức để tranh thủ ủng hộ của các quan và tham gia vào việc quân sự cùng cha. Sau khi Tào Tháo đánh bại được cha con Viên Thiệu, Tào Phi đã lấy vợ của Viên Hy (con trai Viên Thiệu) là Chân Thị, làm vợ. Sau này Chân Thị sinh ra Tào Duệ là người kế nghiệp Tào Phi (Nguỵ Minh đế) nhưng vẫn bị thất sủng. Khi Tào Phi lên ngôi hoàng đế đã sủng ái Quách thị và Chân Thị bị buộc phải tự vẫn.

    Năm 220, Tào Phi đã ép Hán Hiến Đế thoái vị và tự xưng là hoàng đế Ngụy. Tào Phi đã tiếp tục cuộc chiến của cha mình chống lại Thục Hán của Lưu Bị và Đông Ngô của Tôn Quyền nhưng đã không thành công. Không giống như cha mình, Tào Phi tập trung nỗ lực chủ yếu vào quốc gia của mình khiến nó thịnh trị dưới thời trị vì của ông.


    3/ Tào Nhân ( tự Tử Hiếu ) :
    Tào Nhân (168 – 223) là một tướng quân dưới chướng Tào Tháo của nhà Ngụy vào thời Tam quốc. Tào Nhân vốn là em họ của Tào Tháo. Cả ông và cha của Tào Nhân từng giữ vị trí quan trọng trong quân binh.
    Năm 190 Tào Nhân chiêu mộ binh sĩ đi chống lại Đổng Trác. Kể từ lúc này ông và binh lính của ông bắt đầu theo phò tá Tào Tháo.

    Tào Nhân là một tướng sĩ có tài (đặc biệt trong các trận phòng thủ) và cực kì trung thành với Tào Tháo. Vào năm 200 quân Lưu Bị định tấn công mặt sau lãnh thổ của nhà Ngụy, Tào Nhân dẫn đầu một đội quân kỵ binh đã hạ gục quân Thục. Sau này khi Viên Thiệu định xâm chiếm lãnh thổ nước Ngụy, Tào Nhân lại một lần nữa chặn đứng

    Sau khi Tào Phi kế vị Tào Tháo, ông phong cho Tào Nhân lên các chức ngày một cao hơn, cuối cùng Tào Nhân trở thành người đứng đầu võ quan nước Ngụy, chăm lo hết mọi việc binh. Trong những năm cuối đời ông vẫn còn tiếp tục đẩy lui thành vài cuộc tấn công của Tôn Quyền.

    Ông qua đời năm 223, thọ 55 tuổi. Quân sĩ nhớ đến ông như một tướng quân trung thành, nghiêm khắc và tận tụy hết mình.




    4/ Tư Mã Ý ( tự Trọng Đạt ) :
    Tư Mã Ý (179 – 251) là một vị tướng, nhà chiến lược quân sự, một nhà chính trị của Tào Ngụy trong thời kỳ Tam Quốc.

    Năm 208, Tào Tháo đã trở thành Thừa tướng và ra lệnh cho Tư Mã Ý tới tham chính, nói rằng “Nếu ông ta lẩn tránh, hãy bắt giữ.” Sợ điều không hay sẽ xảy ra khi còn từ chối, Tư Mã Ý cuối cùng chấp nhận giữ chức Văn học duyện.

    Ông nổi tiếng nhất có lẽ là nhờ đã bảo vệ được Tào Ngụy khỏi các cuộc Bắc phạt của Gia Cát Lượng. Thành công của ông, và từ đó vị trí quyền lực nhất của ông trong triều đình nhà Ngụy đã tạo điều kiện cho hai con ông là Tư Mã Sư và Tư Mã Chiêu nắm quyền lực thực tế của nhà Ngụy, tạo tiền đề cho cháu của ông là Tư Mã Viêm soán ngôi nhà Ngụy, thành lập nhà Tấn, thống nhất Trung Hoa, chấm dứt thời kỳ Tam Quốc. Sau khi nhà Tấn lập, Tư Mã Ý đã được cháu mình truy tôn thụy hiệu là Tấn Tuyên Đế, miếu hiệu là Cao Tổ.



    5/Hạ Hầu Đôn ( tự Nguyên Nhượng ) :
    Hạ Hầu Đôn (?-220) là một tướng dưới Táo Thào vào thời Tam Quốc ở Trung Hoa. Họ gốc của Tào Thào là họ Hạ Hầu vì thế ông và Tào Tháo có mối quan hệ họ hàng. Ông là anh của Hạ Hầu Uyên. Hạ Hầu Đôn nổi tiếng là người mãnh tướng anh dũng.

    Hạ Hầu Đôn bị mất con mắt trái của mình trong trận chiến ở thành Lạc Hậu, năm 198. Trong lúc đánh quá hăng đã không đề phòng nên bị cung tên đâm vào mắt khiến ông đau đớn tột đỉnh . Tuy nhiên không vì thế mà làm ông mất đi dũng khí ông hùng hổ nói 1 câu nói khiến cho quân địch phai khiếp sợ : “tinh cha huyết mẹ, sao lại vứt bỏ?” nên đã không ngần ngại và cho luôn cả con ngươi vào miệng mình và nuốt. Ông cũng là người hảo hán luôn trung thành với Tào Tháo.

    Sau khi Tào Tháo chết vào năm 220, Tào Phi đã phong chức Đại tướng quân cho Hạ Hầu Đôn, nhưng chỉ 3 tháng sau ông qua đời vì bệnh, như thể là đi theo Tào Tháo vậy.

    Hạ Hầu Đôn là một người tính tình chính trực nhưng nóng nảy, tử tế và trung thành với bạn bè và gia đình, không khoan nhượng đối với kẻ thù. Ông được coi là hữu tướng quân của Tào Thào, được phép đi chung xe ngựa là một vinh dự mà ngay cả cận vệ của Tào Tháo là Điển Vi và Hứa Chử cũng không có.



    6/ Hạ Hầu Uyên ( tự Diệu Tài, em trai Hạ Hầu Uyên ):
    Hạ Hầu Uyên (?-219) tự là Diệu Tài là vị tướng quân đội của phe Đại Ngụy sống vào cuối đời Hán, đầu đời Tam quốc trong lịch sử Trung Hoa. Ông là em của Hạ Hầu Đôn đồng thời cũng có mối quan hệ họ hàng với Tào Tháo. Ông cùng Tào Tháo tham gia nhiều trận chiến lớn trong đời Tam Quốc và chết trong trận chiến núi Định Quân năm 219 bởi Hoàng Trung, 1 trong ngũ hổ tướng của nhà Thục Hán.



    7/ Điển Vi :
    Điển Vi (?-197) là một viên tướng sống vào cuối đời nhà Hán, đầu đời Tam quốc trong lịch sử Trung Quốc. Điển Vi là người theo bảo vệ Tào Tháo

    Năm 197, Tào Tháo đem quân đánh Trương Tú. Trương Tú sợ quân lực của Tào Tháo nên đầu hàng. Nhưng sau đó Tào Tháo lại tư thông với thím dâu của Trương Tú nên Trương Tú tức giận, muốn đánh Tháo nên bàn với mưu sĩ là Giả Hủ và tướng là Hồ Xích Nhi. Hồ Xích Nhi bảo Tào Tháo có Điển Vi bảo vệ nên rất khó đánh, nên dùng kế ăn cắp đôi thiết kích của Vi.

    Thế là Trương Tú mời Điển Vi đến uống rượu cho say mèm rồi ăn cắp đôi thiết kích của Vi rồi đêm đó đốt lửa tấn công Tháo. Tào Tháo vội vàng bỏ chạy. Ðiển Vi say rượu đang ngủ, trong mơ màng chợt nghe tiếng ngựa và tiếng người reo hò, giật mình vùng dậy, sờ đến đôi thiết kích thì không thấy đâu cả lại nghe tin Trương tú kéo quân đến nên Vi vội vàng giật lấy cây kiếm của lính canh chạy ra ngoài thì thấy vô số quân mã, cầm chặt giáo dài đánh bừa vào trại.

    Điển Vi lăn sả vào đám quân ấy, chém giết một lúc chết hơn vài chục người, quân mã ấy mới lui, lại có quân bộ kéo đến. Hai bên giáo mác tua tủa như ngọn lau, mình Vi không một mảnh giáp, trên dưới bị vài mươi nhát đâm nhưng Vi vẫn cứ lăn sả vào đánh. Gươm mẻ không dùng được, Vi bỏ gươm, hai tay chụp ngay lấy hai xác chết làm khí giới, quật chết một lúc chết tám chín người. Giặc thấy thế không dám đến gần, chỉ đứng đằng xa bắn tên lại. Tên bắn như mưa, Ðiển Vi vẫn liều chết giữ cửa trại, nhưng quân giặc đã kéo được vào cửa sau, Ðiển Vi lại bị một mũi giáo đâm trúng giữa lưng. Vi kêu to một tiếng, máu chảy đầy đất rồi chết. Ông chết được nửa giờ rồi mà vẫn không ai dám đi qua cửa trước.

    Tào Tháo nhờ có Điển Vi chặn cửa trước nên thoát nạn chạy được về Hứa Đô nhưng mất người con trai trưởng và người cháu. Tào Tháo thương tiếc Vi vô cùng, sai lập đền thờ và bày bàn cúng tế rồi nói với các tướng rằng:”Ta mất một con trưởng và một cháu yêu, cũng không thương là mấy, chỉ thương khóc Ðiển Vi mà thôi”.



    8/Hứa Chử ( tự Trọng Khang ) :
    Hứa Chử, tự Trọng Khang là vị tướng quân đội của nhà Tào Ngụy sống vào cuối đời Hán, đầu đời Tam quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là tướng hầu cận bên Tào Tháo nổi tiếng không chỉ với sức khỏe phi thường mà còn với sự trung thành, tận tụy, hết lòng vì chủ. Ông được Tào Tháo gọi là “Hổ hầu” hay còn có biệt danh là “Hổ dại” do Mã Siêu đặt cho khi ông và Mã Siêu đại chiến ở trận Đồng Quan.

    Năm 220, Tào Tháo bệnh mất, Hứa Chử theo phục vụ con trai Tào Tháo là Tào Phi. Sau khi Tào Phi mất thì không còn thông tin gì về ông nữa ngoài việc sau này con trai ông là Hứa Nghi vì vi phạm quân lệnh nên bị Chung Hội xử chém năm 263.



    9/ Trương Liêu ( tự Văn Viễn ) :
    Trương Liêu (169-222), tự là Văn Viễn là vị tướng quân đội của phe Đại Ngụy sống vào cuối đời Hán, đầu đời Tam quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là 1 trong những vị tướng giỏi nhất của phe Đại Ngụy với sức khỏe và tài năng quân sự, từng tham gia nhiều trận đánh lớn và nổi tiếng qua trận Hợp Phì với quân Đông Ngô.

    Trương Liêu lúc đầu theo phục vụ dưới trướng Đinh Nguyên, một vị quan nhà Hán cùng Lã Bố. Sau đó, Lã Bố bị Đổng Trác dụ hàng nên Đinh Nguyên bị Lã Bố giết, Trương Liêu về với Đổng Trác. Năm 189, Lã Bố giết tiếp Đổng Trác, Trương Liêu trở thành tướng của Lã Bố.

    Năm 198, Tào Tháo đánh bại Lã Bố ở trận Hạ Bì, Trương Liêu và Lã Bố bị Tào Tháo bắt sống. Tào Tháo ra lệnh đem cả hai đi chém,nhưng Quan Vũ khuyên Tào Tháo nên thu dụng Trương Liêu vì ông là một tướng tài, trí dũng song toàn (khi đó Lã Bố đã xin theo Tào Tháo, nhưng Trương Liêu không hề lo sợ). Trương Liêu cảm nghĩa Tào Tháo nên chịu hàng.

    Năm 208, Tào Tháo thất bại ở trận Xích Bích, Trương Liêu đã cứu Tào Tháo chạy trốn thành công. Sau đó, Trương Liêu được Tào Tháo giao trấn giữ Hợp Phì là nơi yếu điểm trước sự tấn công của Đông Ngô. Trương Liêu đã hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc, bảo vệ thành công Hợp Phì và còn giết được 1 danh tướng của Đông Ngô là Thái Sử Từ. Sau trận đó, Tào Tháo phong Trương Liêu là Chinh Đông tướng quân.

    Sau khi Tào Phi lên nối nghiệp Tào Tháo, Trương Liêu vẫn tiếp tục được trọng dụng. Năm 222, ông cùng Tào Phi dẫn quân đánh Đông Ngô nhưng thất bại. Trương Liêu mất cùng năm đó, thọ 53 tuổi.



    10/ Trương Cáp ( còn gọi là Trương Hợp, tự Tuấn Nghệ ) :
    Trương Cáp (167 – 231) (còn gọi là Trương Hạp hay Trương Hợp) tự là Tuấn Nghệ, là một võ tướng thời Hậu Hán, có công đóng góp rất lớn cho việc Tào Tháo lập nên nhà Ngụy.

    Trương Cáp trước là thuộc hạ của Hàn Phúc, sau đó theo Viên Thiệu, rồi Tào Tháo. Ông bắt đầu tham gia chiến trận năm mới 16 tuổi khi có khởi nghĩa Khăn vàng.

    Khi Tào Tháo đánh nhau với Viên Thiệu ở trận Quan Độ, Trương Cáp nhiều lần bày mưu và khuyên Viên Thiệu nhưng ông ta không nghe lời. Kết quả Trương Cáp và Cao Lãm chạy sang phe Tào Tháo.

    Sau này ông đã trở thành danh tướng nước Ngụy. Trong những chiến tích của ông thì trận giao tranh với Trương Phi ở Ba Tây được xem là nổi bật nhất, dù thất bại nhưng cuối cùng Trương Cáp cũng bày kế và giết được Lôi Đồng của Trương Phi.

    Khi Tào Phi mất, Tào Duệ lên, Trương Cáp được phong làm Hữu tướng quân, người giữ quyền lực quan trọng nhất trong triều đình chỉ sau Tư Mã Ý và tham mưu Hạ Hầu Mậu. Ông được giao trọng trách cùng với Tư Mã Ý tiến đánh vùng Ba Thục.

    Cuối cùng ông bị trúng kế của Gia Cát Lượng ở Kiếm Các và bỏ mạng. Trong Tam Quốc Chí ghi rằng Tư Mã Ý khuyên Trương Cáp không nên đuổi theo quân Thục Hán nhưng ông không nghe nên bị phục kích, nhưng trong các ghi chép khác thì Trương Cáp lúc đó là lão tướng nhiều kinh nghiệm nên không đuổi theo Gia Cát Lượng, nhưng Tư Mã Ý hoặc là vì thiếu hiểu biết hoặc là cố ý hại ông để tranh quyền nên ra lệnh cho ông đuổi theo. Trương Cáp được phong tước Hầu sau khi chết.



    11/ Từ Hoảng ( tự Công Minh ):
    Từ Hoảng (169 – 227) là một tướng sĩ dưới Tào Tháo vào thời Tam Quốc ở Trung Hoa. Ông nổi tiếng nhất qua trận Phàn Thành đẩy lui Quan Vũ.

    Thời trẻ tuổi, Từ Hoảng từng làm quan tại quê nhà. Về sau khi loạn Khăn vàng, ông theo Dương Phụng đi dẹp giặc và được chỉ định làm tướng kị binh.

    Từ Hoảng góp mặt trong hầu hết các chiến dịch lớn của Tào Tháo, bao gồm các trận đánh chống lại Lã Bố, Viên Thiệu, Mã Siêu… Trong các trận Từ Hoảng đều tỏ ra võ công hơn người, tuy nhiên đặc biệt được trọng dụng vì sự hiểu biết của ông.

    Chiến công lớn nhất của Từ Hoảng có lẽ là trận Phàn Thành, khi mà Tào Nhân bị quân Quan Vũ bao vây không còn đường ra thì ông đã kéo viện binh đến đánh buộc Quan Vũ phải lui quân.

    Từ Hoảng tiếp tục trung thành với nhà Ngụy cho tới tận đời Tào Duệ tức con trai Tào Phi. Trong Tam quốc diễn nghĩa ông chết do bị Mạnh Đạt bắn tên vào trán, chết tại Hứa Đô thọ 54 tuổi.



    13/ Bàng Đức ( tự Lệnh Minh ) :
    Bàng Đức (170-219) tự Lệnh Minh là vị tướng quân đội của phe Ngụy sống vào cuối đời Hán, đầu đời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông nổi tiếng trong việc tham gia 2 trận chiến lớn trong đời Tam quốc là trận Đồng Quan (211) và trận chiến tại Phàn Thành (219).

    Năm 214, Trương Lỗ sai Mã Siêu tiến đánh ải Hà Manh giải vây cho Lưu Chương. Bàng Đức vì bệnh nên không đi được. Sau đó, Mã Siêu đầu hàng Lưu Bị. Năm 215, Tào Tháo tấn công ải Dương Bình nhằm chiếm Hán Trung. Trương Lỗ sai Bàng Đức ra địch Tào Tháo. Tào Tháo thấy Bàng Đức có tài nên tìm cách bắt Bàng Đức và chiêu hàng ông. Bàng Đức theo về với Tào Tháo.

    Đầu năm 219, Bàng Đức hộ tống Tào Tháo từ Hán Trung về Hứa Đô an toàn khi Tào Tháo bị quân Thục truy kích.

    Cùng năm đó, Tào Tháo sai Bàng Đức làm tiên phong cùng Vu Cấm dẫn quân đánh Quan Vũ giải vây Phàn Thành. Tuy nhiên, Quan Vũ dùng kế thủy công khiến quân Ngụy đại bại, Bàng Đức bị bắt. Do ông không đầu hàng nên bị chém đầu. Ông mất năm 39 tuổi.



    [/B]14/ Chân Mật ( hay Chân Thị, Chân Hoàng hậu, vợ tào Phi ):[/B]
    Hoài Hoàng hậu Chân Thị (? – 251), còn gọi là Chân Hoàng hậu là vợ của Ngụy Văn Đế Tào Phi, hoàng đế nhà Ngụy thời Tam Quốc.

    Chân Thị thực ra trước kia đã lấy Viên Hy là con trai của Viên Thiệu. Khi Tào Tháo đánh bại cha con Viên Thiệu, Tào Phi lúc bấy giờ nhìn thấy Chân Thị đã say mê sắc đẹp của bà và ép cưới, mặc dù chồng Chân Thị là Viên Hy vẫn còn sống.

    Sau này Chân Thị sinh ra Tào Duệ là người thừa kế Tào Phi.

    Tuy nhiên, vì nhiều lý do không rõ ràng, quan hệ giữa Chân Thị và Tào Phi ngày một căng thẳng. Cuối cùng bà đã bị thất sủng, thay vào đó Ngụy vương Tào Phi sủng ái Quách Thị.

    Chân Thị bị ép phải tự vẫn. Bà qua đời năm 251, thụy hiệu của bà chỉ có một chữ thay vì hai chữ là do chồng bà bị phế năm 254.


    Lần sửa cuối bởi bloodrose041093, ngày 28-11-2010 lúc 05:18 PM.

  5. Đã có 2 thành viên gởi lời cám ơn đến bloodrose041093 vì bài viết hữu ít này:

    DJ.PiKenny (28-11-2010),mylove (28-11-2010)

  6. #4
    Ngày tham gia
    Oct 2010
    Tuổi
    30
    Bài viết
    9
    Cám ơn
    1
    Được cám ơn 6 trong 4 bài viết
    Mức độ nổi tiếng
    0

    Mặc định Trả lời: Bộ Ảnh các anh hùng Tam Quốc - tặng anh em mê tam quốc chí đây

    III-PHE NGÔ:
    1/Tôn Kiên ( tự Văn Đài) :
    Tôn Kiên (155-193), tự Văn Đài, là một vị tướng quân đội tài giỏi trong lịch sử Trung Hoa đã đặt nền móng xây dựng nên nhà Đông Ngô vào đời Tam Quốc. Ông có 5 người con trai trong đó hai người nổi bật là con cả Tôn Sách và con thứ Tôn Quyền. Ngòai ra ông còn có một người con gái là Tôn Thượng Hương.

    Năm 184, loạn giặc Khăn vàng do Trương Giác lãnh đạo bùng nổ. Tôn Kiên nhờ có công tham gia dẹp giặc nên được phong làm thái thú Trường Sa. Năm 191, Viên Thuật là em của Viên Thiệu xui Tôn Kiên tấn công Lưu Biểu. Tôn Kiên cùng con trai là Tôn Sách kéo quân đến Kinh Châu nhưng chẳng may năm 193, Tôn Kiên bị lọt vào trận mai phục của Lã Công, tướng Lưu Biểu nên cả người lẫn ngựa chết dưới chân núi Hiện Sơn, thọ 38 tuổi.

    Tôn Kiên là người đặt nền móng cho nhà Đông Ngô, nhưng con trai ông là Tôn Quyền mới thực sự là người đưa nhà Ngô đến cực thịnh, cũng như nắm vai trò lớn hơn trong Tam Quốc Diễn Nghĩa.


    2/Tôn Sách ( tự Bá Phù, con trai lớn Tôn Kiên ) :
    Tôn Sách (175 – 200) là một viên tướng và một lãnh chúa trong thời kỳ cuối của nhà Đông Hán và thời kỳ đầu của Tam Quốc ở Trung Hoa. Ông có công lớn trong việc xây dựng nền móng nhà Ngô.

    Năm 200, khi lãnh chúa đang nổi lên là Tào Tháo đang có trận đánh quyết định với Viên Thiệu tại Quan Độ, thì Tôn Sách dường như đã có kế hoạch tấn công kinh đô và căn cứ quân sự của Tào Tháo tại Hứa Xương. Tuy nhiên, ông đã bị ám sát và chết trước khi có thể thực hiện được kế hoạch này. Thưở trẻ Tôn Sách chơi thân với Chu Du, hai người cùng lấy vợ họ Kiều Tông. Tôn Sách lấy Đại Kiều còn Chu Du lấy Tiểu Kiều.

    Một nhân vật cùng thời là Hứa Cống, trong một bức thư gửi cho Hán Hiến Đế, đã so sánh Tôn Sách với Hạng Vũ, một mãnh tướng cuối thời kỳ nhà Tần. Do Hạng Vũ thường được gọi là Sở Bá Vương nên Tôn Sách vì thế mà còn được gọi là Tiểu Bá Vương trong văn hóa dân gian Trung Quốc.


    3/Tôn Quyền ( tự Trọng Mưu, con thứ Tôn Kiên):
    Tôn Quyền (182 – 252), tự Trọng Mưu. Ông là người xây dựng nước Ngô thời Tam Quốc.

    Cuối đời Đông Hán, sau khi cha Tôn Quyền là Tôn Kiên, anh ông là Tôn Sách đã chiếm cứ 6 quận Giang Đông làm căn cứ kình chống nhau giữa các phe phái quân phiệt. Tôn Kiên chết, không lâu sau Tôn Sách cũng bị kẻ có tư thù giết hại trong một cuộc đi săn. Trước khi chết, Tôn Sách nói với bọn mưu thần Trương Chiêu:
    “Các ngươi nên gắng sức giúp em ta.”

    Tôn Quyền mới 18 tuổi đã nối chức vụ của anh mình, trở thành người thống trị tối cao ở tỉnh Giang Đông. Do Tôn Quyền có tài, lại chú ý đoàn kết lực lượng các phe, nên nhanh chóng dành được uy vọng, khiến cục thế Đông Ngô ổn định trong thời hỗn loạn. Năm 229, Tôn Quyền xưng đế ở Vũ Xương, lấy quốc hiệu là Ngô, sau dời đô đến Kiến Nghiệp (nay là thành phố Nam Kinh, Giang Tô). Tài năng chính trị của ông thậm chí Tào Tháo cũng phải khen ngợi, tuy rằng Tôn Sách anh của Tôn Quyền cũng là một người tài giỏi gần như vẹn toàn nhưng Tào Tháo không hề xem trọng, ông từng khen “Sinh con nên như Tôn Trọng Mưu”.

    Năm 252, Tôn Quyền qua đời, thọ 71 tuổi. Ông được truy tôn là Ngô Đại Đế.

    Sau cái chết của Tôn Quyền, nước Ngô phát sinh lục đục nội bộ và suy yếu.


    5/Tôn Thượng Hương ( vợ Lưu Bị, con Tôn Kiên ) :

    Tôn Thượng Hương hay Tôn phu nhân là con gái duy nhất của Tôn Kiên. Bà có 5 người anh trai trong đó anh cả là Tôn Sách và anh hai là Tôn Quyền.

    Năm 209 Tôn Thượng Hương được gả cho Lưu Bị nhằm giữ vững mối hòa hiệp trong liên minh Ngô-Thục. Vào lúc đó, bà mới hơn 20 tuổi. Do cả hai bà vợ trước đó của Lưu Bị đều đã mất, Tôn Thượng Hương dần dần kiểm soát nhà và con (Lưu Thiện) của Lưu Bị.

    2 năm sau, mối quan hệ giữa Ngô và Thục bắt đầu căng thẳng. Tôn Thượng Hương quay trở về với anh trai của mình là Tôn Quyền. Theo những gì Triệu Vân viết thì bà định mang theo con trai của Lưu Bị là Lưu Thiện với mình. Tuy nhiên đã bị Trương Phi và Triệu Vân chặn lại. Sau khi hai bên thương thuyết, Tôn Thượng Hương để lại Lưu Thiện về nước Ngô. Kể từ đây hôn nhân giữa bà và Lưu Bị chấm dứt. Bà không bao giờ gặp lại Lưu Bị, và sử sách cũng không có nói gì đến chuyện bà tái giá.

    Trong Tam quốc diễn nghĩa, bà được miêu tả là người có tính khí nóng nảy và rất cứng đầu. Tiểu thuyết nói rằng bà hay gây rắc rối và thường các tướng sĩ của Lưu Bị phải để mắt đến Tôn phu nhân. Tôn Thượng Hương với tư cách là vợ Lưu Bị cũng hai lần bị sử dụng trong các mưu kế của Chu Du và Tôn Quyền nhằm mục đích chống phá nhà Thục.


    6/Chu Du ( tự Công Cẩn ):
    Chu Du (175 – 210), tên tự là Công Cẩn, là danh tướng của nước Ngô thời Tam Quốc. Trong bộ truyện Tam Quốc Diễn Nghĩa của nhà văn La Quán Trung có viết rằng do Chu Du đẹp trai và rất giỏi âm luật nên được gọi là Mỹ Chu Lang . Ông là một nhà quân sự tài ba, chuyên về thủy chiến, chức vụ chính thức là Đại Đô Đốc Thủy Quân, nên được gọi là Chu Đô Đốc.

    Chu Du nổi tiếng với chiến thắng ở sông Xích Bích trước quân Tào Tháo, là trận chiến lớn nhất thời đó. Năm Chu Du 24 tuổi đánh chiếm Uyển Thành và cùng với Tôn Sách đi cầu hôn 2 cô con gái xinh đẹp của Kiều Tông. Tôn Sách cưới Đại Kiều, còn Chu Du cưới Tiểu Kiều. Năm 200, Tôn Sách chết. Chu Du chuyển từ thành Ba Khâu về Ngô Quận để giúp đỡ Tôn Quyền, lúc ấy còn nhỏ.

    Chu Du là người yêu âm nhạc, lễ phép khiêm tốn, nhưng trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, ông bị mô tả như một đứa trẻ ngô nghê và nóng tính, bị Gia Cát Lượng chọc tức 3 lần đến chết. Nhà văn còn viết một câu khá nổi tiếng rằng trước khi chết Chu Du phẫn uất mà than: “Trời đã sinh Du sao còn sinh Lượng?”.

    Chu Du có công cực lớn trong việc giúp nhà họ Tôn lập nên Đông Ngô, là khai quốc đại công thần, từng theo phò tá cho cả 3 vị chủ tướng đầu tiên của Ngô.


    7/Lã Mông ( tự Tử Minh ) :
    Lã Mông (178-219) tự Tử Minh, là vị tướng quân đội của phe Đông Ngô sống vào cuối đời Hán, đầu đời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.

    Ông trở thành người đứng đầu của quân đội Đông Ngô sau cái chết của Chu Du và Lỗ Túc và nổi tiếng qua việc chiếm Kinh Châu dẫn đến cái chết của Quan Vũ, người đứng đầu trong ngũ hổ tướng phe Thục Hán Nhân lúc Quan Vũ đi đánh Phàn Thành ở Tương Dương, Lã Mông dùng kế đánh úp Kinh Châu rồi phục binh bắt được Quan Vũ khi ông trên đường chạy trốn về Thành Đô. Quan Vũ bị Tôn Quyền sai đem chém. Chẳng lâu sau đó Lã Mông cũng bệnh mất ở tuổi 41. Do Lã Mông mất cùng năm với Quan Vũ nên tác phẩm Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung hư cấu chuyện Quan Vũ hiện hồn về vật chết Lã Mông.



    8/Lục Tốn ( tự Bá Ngô ):
    Lục Tốn (183-245), tên tự là Bá Ngô, một quân sư của Đông Ngô trong thời kỳ Tam Quốc ở Trung Quốc.

    Ông nổi tiếng qua trận Di Lăng vào năm 222 đánh bại quân Thục Hán của Lưu Bị khiến ông trở thành 1 trong những quân sư nổi tiếng nhất của đời Tam Quốc.

    Năm 222, Lưu Bị dẫn 75 vạn quân đánh Đông Ngô báo thù cho Quan Vũ. Lúc này các quân sư hàng đầu của Đông Ngô như Chu Du, Lỗ Túc và Lã Mông đã qua đời nên trọng trách bảo vệ Đông Ngô được giao cho Lục Tốn. Biết Lưu Bị không có kinh nghiệm dùng binh, đóng quân ở nơi tử địa nên Lục Tốn đã dùng hỏa công tiêu diệt 70 doanh trại của Lưu Bị, đánh tan 7 vạn quân Thục. Sau trận này 1 năm Lưu Bị bệnh chết ở thành Bạch Đế.

    Sau trận Di Lăng, Đông Ngô và Thục Hán kí hòa ước nên từ năm 222 đến năm 245, Lục Tốn đã nhiều lần đánh đuổi quân Đại Ngụy, bảo vệ thành công Đông Ngô. Năm 234, ông dẫn quân đánh Hợp Phì theo sự nhờ cậy của Khổng Minh nhưng thất bại. Năm 245, ông mất ở tuổi 62



    9/Hoàng Cái ( tự Công Phúc ) :
    Hoàng Cái (?-?) tự Công Phúc là vị tướng quân đội của nhà Đông Ngô sống vào cuối đời Hán, đầu đời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.

    Ông phục vụ cho cả 3 nhà lãnh đạo Đông Ngô là Tôn Kiên, Tôn Sách và Tôn Quyền và nổi tiếng qua chiến công trá hàng đốt chiến thuyền của quân Tào Tháo trong trận Xích Bích dẫn đến thắng lợi của quân Đông Ngô vào năm 208 SCN. Hoàng Cái đã theo phục vụ Tôn Kiên từ những ngày đầu Tôn Kiên lập nghiệp.

    Năm 193, Tôn Kiên tử trận tại Kinh Châu, con trưởng của Tôn Kiên là Tôn Sách lên thay. Hoàng Cái cùng Tôn Sách đem quân mở rộng lãnh thổ Giang Đông cho đến tận năm 200 thì Tôn Sách mất, Tôn Quyền lên thay. Hoàng Cái là một vị tướng được quân sĩ kính nể, Tôn Quyền cực kì trọng dụng ông.

    Trong những năm phục vụ của mình ông được ban cho nhiều chức tước danh giá.


    10/Chu Thái (tự Âu Bình) :
    Chu Thái (?-225) tự Ấu Bình là vị tướng quân đội sống vào cuối đời Hán, đầu đời Tam quốc trong lịch sử Trung Quốc.

    Ông là tướng của phe Đông Ngô , nổi tiếng trong việc đã nhiều lần cứu Tôn Quyền là vua Đông Ngô thoát khỏi vòng vây.

    Năm 200, Tôn Sách mất giao lại Giang Đông cho Tôn Quyền. Năm 215, Tôn Quyền tấn công Hợp Phì. Khi Tôn Quyền bị Trương Liêu, Từ Hoảng vây khốn thì Chu Thái lần nữa cứu Tôn Quyền thoát khỏi vòng vây. Tôn Quyền nhờ có Chu Thái đỡ tên giùm nên không bị gì còn Chu Thái bị tên bắn xuyên hai lần áo giáp, còn vết thương thì vô kể. Lát sau Chu Thái còn lao vào vòng vây cứu Từ Thịnh. Trở về, Tôn Quyền mở một bữa tiệc nhỏ. Trong bữa tiệc ông bảo Chu Thái vén áo lên rồi hỏi thăm từng vết thương, Chu Thái cứ thực tình mà tâu từng vết thương bị khi nào, tại sao. Cứ mỗi vết thương, Tôn Quyền lại ban cho Chu Thái một chén rượu, lát sau Chu Thái say mèm. Sau đó Quyền lại ban cho Thái một cái tán , để ra vào thêm phần quí trọng. Ngòai ra, Chu Thái còn từng cùng Chu Du giải vây thành Di Lăng, cứu nguy cho Cam Ninh.

    Năm 222, Lưu Bị dẫn quân đánh Đông Ngô báo thù cho 2 em là Quan Vũ, Trương Phi. Đông Ngô nhờ có Lục Tốn dùng hỏa công đốt 40 doanh trại của Lưu Bị tại Di Lăng nên quân Thục đại bại. Chu Thái tham gia trận chiến này, đã chém chết Man Vương là Sa Ma Kha khi ông kéo quân truy kích quân Thục.

    Năm 225, Chu Thái mất tại Giang Đông.



    11/Cam Ninh ( tự Hưng Bá ):
    Cam Ninh (175-218) tự Hưng Bá là vị tướng quân đội của phe Đông Ngô sống vào cuối đời Hán, đầu đời Tam quốc trong lịch sử Trung Quốc.

    Ông nổi tiếng là 1 vị tướng gan dạ và dũng mãnh qua nhiều trận đánh nhưng nổi tiếng nhất là trận Hợp Phì năm 215 giữa Đông Ngô và Đại Ngụy. Cam Ninh sinh năm 175 tại Lâm Giang thuộc Ba quận. khi còn trẻ ông là người thông hiểu về kinh sử, có sức mạnh hơn người, tính lại thích lãng du, thường chiêu tập bọn du đảng, lưng đeo chuông đồng, tung hoành khắp thiên hạ. Ai ai nghe tiếng chuông đều kinh hãi ù té bỏ chạy trốn. Ông còn lấy gấm Tây Xuyên làm buồm thuyền, vì thế người ta gọi là “giặc buồm gấm”.

    Về sau, ông hối hận việc làm của mình nên cải tà quy chánh, dẫn thủ hạ đến đầu Lưu Biểu. Thấy Lưu Biểu không làm nổi việc lớn, Ninh muốn sang theo Ðông Ngô , nhưng lại bị Hoàng Tổ giữ lại ở Hạ Khẩu.

    Khi Đông Ngô tiến đánh Hạ Khẩu, Hoàng Tổ đã nhờ Cam Ninh bắn chết tướng Đông Ngô là Lăng Tháo (là cha của Lãng Thống, một tướng Ngô khác) mới giữ được thành nhưng về sau, Tổ lại bạc đãi Ninh. Viên Đô Ðốc của Hoàng Tổ là Tô Phi nhiều lần khuyên Hoàng Tổ trọng dụng Cam Ninh nhưng Hoàng Tổ cho Ninh chỉ là tên cướp biển nên coi khinh. Về sau, Cam Ninh đầu hàng Đông Ngô và đém quân đánh trở lại Hoàng Tổ vào năm 208. Hoàng Tổ bị Cam Ninh giết chết và cả vùng Giang Hạ thuộc về Đông Ngô. Cùng năm đó, Tào Tháo đem 83 vạn quân tiến đánh Đông Ngô nhưng thất bại ở trận Xích Bích.

    Cam Ninh cũng tham gia trận Xích Bích và lập được nhiều công trạng. Sau đó, ông theo Chu Du tấn công Nam Quận với ý đồ đoạt Kinh Châu của Tào Tháo. Chu Du sai ông tấn công thành Di Lăng nhưng sau khi chiếm thành ông bị vây hãm trong thành, may nhờ có Chu Thái và Chu Du đến cứu. Sau những trận đánh này danh tiếng của Cam Ninh vang danh khắp nơi.

    Ông mất năm 218 ở tuổi 43 vì bệnh. Theo Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung thì ông mất năm 222 trong trận Di Lăng bởi tướng Phiên là Sa Ma Kha.


    12/Lăng Thống ( tự Công Trực ) :

    Lăng Thống (189 – 237) tên chữ Lăng Công Tục, là một tướng của Đông Ngô thời Tam Quốc, Trung Hoa. Lăng Thống sinh ở Dư Hàng, Chiết Giang.

    Ông cùng với cha là Lăng Tháo theo Tôn Sách khi Sách đi đánh Nghiêm Bạch Hổ và Vương Lãng Khi Tôn Quyền đi đánh Hoàng Tổ, cha ông bơi thuyền bị Cam Ninh bắn chết. Lúc này Lãng Thống mới có 15 tuổi mà đã ra sức cướp được xác cha về. Sau đó, Cam Ninh hàng Tôn Quyền. Mang thù hằn trong lòng, ông luôn tìm cách giết Cam Ninh.

    Về sau, đánh nhau với Nhạc Tiến ở Hợp Phì, ông bị Tào Hưu lén bắn tên trúng ngựa làm ông ngã xuống đất, Nhạc Tiến định vác giáo lại đâm thì Cam Ninh đã kịp bắn tên trúng ngay trán Nhạc Tiến để cứu ông. Từ đó ông không còn thù hằn gì với Cam Ninh nữa. Sau khi theo quân đánh An Huy, ông được phong Đãng Khấu Trung Lang Tướng, Lĩnh Phái Tướng, cùng Lã Mông đoạt được quận Kinh Châu của Lưu Bị.

    Lãng Thống mất năm 49 tuổi do bệnh nặng.


    13/Thái Sử Từ ( tự Tử Nghĩa ) :
    Thái Sử Từ (166-206) là một tướng của nhà Đông Ngô dưới thời Tam Quốc, Trung Hoa. Ông là người ở Hoàng Huyện, họ là Thái Sử tên là Từ, tự là Tử Nghĩa.

    Mẹ của Thái Sử Từ vì ân nghĩa với Khổng Dung (cháu mấy đời của Khổng Tử) nên sai Từ đi đánh Quản Hợi.Sau trận đánh này, ông đã được Khổng Dung đem vàng lụa tạ ơn nhưng ông không nhận. Ông trở về hướng nam để giúp thứ sử Dương Châu là Lưu Do, người cùng quận với Từ. Suốt thời gian đó, Lưu Do đang chống lại Tôn Sách. Tôn Sách có trong tay Ngọc Tỷ (Ấn Vua), nhưng lại không có binh quyền thì cái quyền lực ảo đó không nghĩa lý gì, chi bằng cầm nó cho Viên Thiệu mượn ba ngàn quân thực về Giang Đông dựng nghiệp. Khi về đến Giang Đông đánh trận đầu với Thái Sử Từ cả ngày, lúc đầu còn dùng kích, giáo về sau quăng cả vũ khí đánh nhau bằng tay đến rách cả áo giáp vẫn không phân được thắng bại. Hôm sau Tôn Sách dùng mưu bắt sống được Thái Sử Từ. Thấy Thái Sử Từ là một tướng văn võ song toàn nên Tôn Sách đã phân giải mọi điều để chiêu dụ Thái sử Từ về dưới trướng mình.

    Thái Sử Từ trở bệnh rồi mất trước trận đánh ở Hợp Phì. Ông được mai táng ở núi Cốc Sơn. Tôn Quyền đem con Thái Sử Từ là Thái Tử Hoàng làm con nuôi. Có người nói ông bị Trương Liêu giết trong trận đó.



    14/Song Kiều ( 2 chị em Đại Kiều và Tiểu Kiều ) :
    Đại Kiều là người chị, vợ của Tôn Sách.



    Tiểu kiều là người em, vợ của Chu Du.



    Năm Chu Du 24 tuổi đánh chiếm Uyển Thành và cùng với Tôn Sách đi cầu hôn 2 cô con gái xinh đẹp của Kiều Tông. Tôn Sách cưới Đại Kiều, còn Chu Du cưới Tiểu Kiều.

  7. Những thành viên gởi lời cám ơn đến bloodrose041093 vì bài viết hữu ít này:

    DJ.PiKenny (28-11-2010)

  8. #5
    Ngày tham gia
    Oct 2010
    Tuổi
    30
    Bài viết
    9
    Cám ơn
    1
    Được cám ơn 6 trong 4 bài viết
    Mức độ nổi tiếng
    0

    Mặc định Trả lời: Bộ Ảnh các anh hùng Tam Quốc - tặng anh em mê tam quốc chí đây

    IV-CÁC THẾ LỰC KHÁC:
    1/Đổng Trác ( tự Trọng Dĩnh ) :
    Đổng Trác (132-192) là một viên quan nổi tiếng tàn bạo trong lịch sử Trung Quốc, sống vào cuối thời Đông Hán, đầu thời Tam Quốc.

    Đổng Trác tòng quân vào khoảng 25 tuổi, được Thứ sử Lương châu cho làm chức Lương châu Binh mã duyện (Chức phó coi việc quân), trông giữ biên tái, đánh đuổi quân Khương, giết giặc hàng nghìn, lập được nhiều quân công. Năm 162, Đổng Trác 30 tuổi, được Thứ sử Tính châu là Đoàn Quýnh đề cử, vào Cấm vệ quân ở Kinh thành làm chức Vũ Lâm lang.

    Năm 184, trước cuộc khởi nghĩa Khăn Vàng, Đổng Trác được dùng làm Đông Trung lang tướng đánh quân Khăn Vàng ở hai tỉnh Hà Bắc và Sơn Đông, thua trận và bị bãi chức.

    Đổng Trác liên tiếp sử dụng mưu kế bức bách để vua Hán Thiếu Đế (Lưu Biện) phải nhường ngôi cho em là Trần Lưu Vương Lưu Hiệp, tức Hán Hiến Đế và phế Thiếu Đế làm Hoằng Nông Vương rồi sau đó giết đi. Năm 190 liên minh 18 sứ quân do Viên Thiệu cầm đầu đã nổi dậy ở các tỉnh miền đông chống lại Đổng Trác. Dưới áp lực này, Đổng Trác phải mang Hiến đế chạy về phía tây tới Trường An vào tháng 5 năm 191.

    Đổng Trác lui khỏi Lạc Dương, ép vua rời đô về phía Tây. Ông cho đào bới lăng tẩm các vua và mồ mả công khanh để vét lấy châu báu. Người dân Trung Hoa cho rằng Đổng Trác chính là một tên trộm đào mộ lớn nhất trong lịch sử Trung Quốc.

    Ông còn bắt mấy triệu nhân dân Lạc Dương và vùng quanh đó đưa tới Quan Trung rồi đốt sạch nhà cửa, súc vật cũng không tha. Nhân dân bị xua đi, dọc đường thiếu thốn lương thực, lại bị lũ lính đánh đập và cướp bóc, người chết nhiều vô kể, thây chất đầy đường

    Tháng 4 năm 192, quan tư đồ Vương Doãn dùng mỹ nhân kế hiến Điêu Thuyền, tạo mâu thuẫn giữa hai cha con Đổng Trác và Lã Bố để rồi sau đó lại bị Lã Bố phục kích giết chết Đổng Trác, đoạt lấy Điêu Thuyền rồi cùng với Trần Cung tạo lập thế lực riêng cho mình. Đổng Trác chết rồi, trai gái thành Trường An đem bán quần áo, trang sức đổi lấy rượu để ăn mừng.

    Cái xác to phì của Đổng bị đem bỏ ngoài chợ để răn đe mọi người. Quân sĩ lấy rơm quấn quanh bụng xác chết rồi châm lửa làm đèn cho tới khi cái thây chỉ còn là một đống tro tàn. Bọn thuộc hạ của Đổng Trác thu gom xương thịt của ông đem đi cải táng nhưng lại bị sấm sét đánh trúng mộ của Đổng Trác đến mấy lần, lại đem chôn tiếp cho đến thi thể Trác bị sét đánh nát hết.


    2/Lữ Bố ( tự Phụng Tiên ) :
    Lã Bố, tự là Phụng Tiên (đôi khi cũng được gọi là Lữ Bố và Lữ Phụng Tiên). Lã Bố là một võ tướng và là một quân phiệt cát cứ cuối đời Đông Hán. Lã Bố được biết tới chủ yếu qua tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung. Trong tiểu thuyết này Lã Bố được mô tả là một viên tướng hết sức dũng mãnh, chuyên sử dụng phương thiên họa kích. Người ta thường nói “Người có Lã Bố, ngựa có Xích Thố”.

    Trước Lã Bố là tướng của Đinh Nguyên, nhận làm nghĩa phụ. Nhưng sau Đổng Trác cho người là Lý Túc đem ngựa Xích Thố đến dụ, Lã Bố lại giết Đinh Nguyên và về với Đổng Trác, nhận làm con nuôi ông này. Lã Bố là dũng tướng của Đổng Trác giúp Đổng Trác thực hiện âm mưu cướp ngôi vua nhà Hán.

    Trong phủ có quan tư đồ Vương Doãn bề ngoài cung kính nhưng ngấm ngầm lập mưu giết Đổng Trác. Vương Doãn biết hai cha con Lã Bố và Đổng Trác có tính hiếu sắc nên dùng kế ly gián trước, gả con gái nuôi là Điêu Thuyền cho Lã Bố sau là Đổng Trác gây nên mối bất hòa giữa hai cha con. Kết quả là Lã Bố giết chết Đổng Trác, lấy Điêu Thuyền làm thiếp.

    Năm 198, Lã Bố tấn công Lưu Bị, Tào Tháo đến cứu Lưu Bị. Lã Bố nghe lời vợ, ngồi nhà giữ thành, bị bao vây.Lã Bố giữ thành Hạ Phì, bị chính tướng lĩnh của mình phản bội, bắt nộp Tào Tháo. Nhưng trong bộ “Trung Quốc tướng soái toàn truyện” của Trịnh Phúc Điền, Dương Diệu Xuân và Khả Vĩnh Tuyết, Lã Bố thấy thế lâm nguy, bảo bộ hạ lấy đầu mình đi dâng Tào Tháo lấy công, nhưng bộ hạ không nỡ làm. Lã Bố đành ra hàng.

    Đằng nào cũng vậy, Lã Bố bị trói đến trước mặt Tào Tháo, nói rằng “Thiên Hạ từ nay yên rồi!”. Tào Tháo hỏi tại sao, Lã Bố nói “Có ta làm phó thống lĩnh kỵ binh, bình thiên hạ dễ như trở bàn tay”. Tào Tháo định thả Lã Bố, nhưng Lưu Bị ngồi bên nói “Ngài quên Đinh Nguyên và Đổng Trác rồi ư?”. Thế là Lã Bố bị đưa đi thắt cổ

    Trong truyện thì sức mạnh của Lã Bố được ca ngợi qua lần một mình đấu với ba anh em Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi, hay một mình địch sáu tướng của Tào Tháo, trong đó gồm cả Hứa Chử và Điển Vi.


    3/Điêu Thuyền :
    Điêu Thuyền là một người đẹp trong tứ đại mỹ nhân Trung Hoa và là một nhân vật nổi tiếng thời Tam Quốc. Điêu Thuyền được mệnh danh là người đẹp Bế Nguyệt, có sắc đẹp khiến cho trăng cũng phải xấu hổ mà giấu mình đi.

    Điêu Thuyền là con nuôi trong nhà Tư đồ Vương Doãn, được gả cho cả 2 cha con nuôi Đổng Trác và Lã Bố để tùy cơ ly gián, một mặt tỏ vẻ yêu quí Đổng Trác, nhưng khi đến với Lã Bố thì lại ra sức quyến rũ, khi đến cao trào thì Lã Bố chịu không nổi đả kích giết luôn Đổng Trác. Mưu sĩ Lý Nho của Đổng Trác biết trước sự nguy hiểm của Điêu Thuyền, nhưng không sao can thiệp được mà trước đó chỉ biết thốt lên “Bọn ta đều chết cả về tay người đàn bà này!”.

    Chính kế liên hoàn của Vương Doãn và Điêu Thuyền đã giết Đổng Trác, hại Lã Bố, là việc mà binh hùng tướng mạnh không làm được.

    Trong “Thánh Thán Ngoại Thư”, Mao Tôn Cương viết về Điêu Thuyền như sau:

    “18 lộ quân chư hầu không giết nổi Đổng Trác, mà một thiếu nữ đào tơ liễu yếu như Điêu Thuyền lại giết nổi Trác. Ba anh em Lưu, Quan, Trương hùng liệt không thắng nổi Lã Bố, mà chỉ một nàng Điêu Thuyền thắng nổi. Ôi, lấy chăn chiếu làm chiến trường, lấy son phấn làm khôi giáp, lấy mày ngài làm cung nỏ, lấy nước mắt nũng nịu làm tên đạn, lấy lời tình tứ ngọt ngào làm chiến lược mưu cơ. Xem thế thì cái bản lãnh của “nữ tướng quân” quả là tuyệt cao cường, đáng sợ thay!”


    4/Viên Thiệu ( tự Bản Sơ) :
    Viên Thiệu (? – 202), tự Bản Sơ là một vị tướng quân cuối đời nhà Hàn, đầu thời Tam Quốc ở Trung Hoa. Ông là người dẫn đầu liên quân miền Đông chống lại Đổng Trác.

    Viên Thiệu có uy nhưng thiếu dũng, binh lực hùng hậu nhưng không nghe lời khuyên của Điền Phong mà dẫn đến mất nước, là người chỉ trọng cái lợi nhỏ ở trước mắt. Ngược với Tào Tháo là người hiểu người, biết trọng nhân tài và biết chọn lựa kế sách thực hiện 1 cách quyết đoán, Viên Thiệu thích nhiều mưu nhưng lại hay do dự, thiếu quyết đoán.

    Thất bại của Viên Thiệu trước Tào Tháo là một ví dụ điển hình cho thấy sức mạnh của chiến thuật và binh pháp có thể dùng để hạ gục phe địch đông đảo hơn nhiều. Bằng cách giả vờ chạy, phản công và rút lui chiến thuật, quân Tào Tháo đã làm cho sức mạnh số đông của quân Viên Thiệu trở nên vô dụng.

    Tào Tháo từng phân tích vì sao Viên Thiệu sẽ thất trận:

    1.Ông ta quá kiêu ngạo, ích kỉ và già cỗi
    2.Quân sư của ông đấu đá lẫn nhau
    3.Tướng của Viên Thiệu có cơ bắp mà không có trí tuệ.
    4.Cả ba người con trai của ông không hòa thuận với nhau.
    5.Ông ta không tôn trọng binh lính của mình

    Và quả nhiên Tào Tháo đã nói đúng.

    5/Trương Giác :
    Trương Giác (140-184) là thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa Hoàng Cân, hay còn gọi là quân Khăn Vàng vào cuối thời kỳ nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông thành lập và lãnh đạo đội quân khăn vàng (triều đình nhà Hán gọi là giặc Khăn Vàng) chống lại triều đình nhà Hán nhưng đã bị triều đình đàn áp.

    Trong Tam Quốc Diễn Nghĩa kể rằng Trương Giác đi thi không đạt, vào hang hái thuốc thì gặp một ông lão. Ông lão mời Trương Giác vào hang và trao cho 3 cuốn sách, nói rằng đây là tinh hoa trời đất ai đọc sách này sẽ có phép thuật hơn người, phải dùng để thống nhất thiên hạ. Trương Giác hỏi tên thì ông lão biến mất. Sau đó Trương Giác ngày đêm nghiên cứu sách và cuối cùng học được phép thuật.

    Về sau này cuộc khởi nghĩa khăn vàng đã bị triều đình nhà Hán đè bẹp


    6/Mạch Hoạch:
    Mạnh Hoạch là một lãnh chúa, người đứng đầu Nam Man nằm ở Nam Trung, phía nam của Thục Hán.

    Theo Tam Quốc Diễn nghĩa, Mạnh Hoạch đứng đầu các bộ lạc Nam Man và thường xuyên quấy nhiễu và Gia Cát Lượng đã đích thân dẫn quân đến thu phục Mạnh Hoạch. Theo Tam Quốc Diễn Nghĩa thì Gia Cát Lượng đã 7 lần bắt được Mạnh Hoạch và tha với mục đích thu phụ nhân tâm các bộ lạc khu vực này. Mạnh Hoạch sau đó thề trung thành với Thục Hán.

    Ông có một người vợ đó là Chúc Dung phu nhân.

    Theo chính sử thì Mạnh Hoạch không phải là người thuộc các bộ lạc Nam Man mà là người Hán.


    7/Chúc Dung ( vợ Mạch Hoạch ) :
    Chúc Dung phu nhân là vợ của Mạnh Hoạch.

    Chúc Dung là nhân vật nữ duy nhất trong Tam Quốc Diễn Nghĩa có khả năng chiến đấu. Bà từng đích thân hạ gục vài tướng của nhà Thục trên chiến trường.

    Bà được coi là con gái của Hỏa Thần.


  9. Những thành viên gởi lời cám ơn đến bloodrose041093 vì bài viết hữu ít này:

    DJ.PiKenny (28-11-2010)

Tag của Chủ đề này

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •  

Quảng Cáo

RSS 2.0 XML MAP