Những chuyện khó tin

kei_amkura2

New member
Cõng vợ 30 năm

Trên đại lộ thị trấn Tân Tạo huyện Phiên Ngung (Quảng Ðông – Trung Quốc) thỉnh thoảng lại xuất hiện một đám đông những người hiếu kỳ tụ tập ở một góc đường. Họ chăm chú nhìn vào cái giỏ mây đặt bên đường. Nằm trong giỏ dài hơn 90cm, ngang nhỏ hơn 60cm, là một người dị dạng: tứ chi hoàn toàn bị gấp khúc, xương sống cong gập, toàn thân chỉ còn da bao lấy đầu xương. Người ấy nằm bất động, chỉ có hai con mắt và miệng là cử động được.

Ông lão Triệu Hiền Thành ngồi bên cạnh cái giỏ mây cho biết người nằm trong giỏ là vợ ông – bà Ðường Kim Tú. Ông nói: “Ngày trước, bà ấy cao 1m69, nặng 54kg. Giờ đây chỉ còn 24kg rưỡi, cao không tới 0.7m.”

Thật khó mà hình dung được bà lão đang cuộn tròn kia đã từng là một phụ nữ cao ráo, cân đối. Ông Thành kể: “Năm 1963, vợ tôi mới 27 tuổi. Một hôm đi làm đồng về bà ấy than đau mắt cá. Qua hôm sau, đầu gối cũng bắt đầu đau nhức. Sau đó, cả chân, tay, vai đều đau thốn như bị ai rút gân vậy. Chỗ nào đau thì chỗ đó bắt đầu co rút lại. Bà ấy đau đến nỗi cứ khóc suốt. Tôi đã đưa bà ấy đi khám nhiều bác sĩ.”

Hầu hết đều cho rằng bà mắc bệnh phong thấp. Nhưng càng uống thuốc, bệnh tình bà càng nặng, thân thể ngày càng teo lại. Các khớp xương bị phù gây đau nhức rồi biến dạng. Ðến lúc này ông Thành biết vợ mình mắc phải bệnh nan y.

“... Lỗi tại tôi cả. Vợ vừa mới sinh chưa đầy một tháng đã phải ra đồng làm việc, cứ ngâm mình trong nước mãi... Rồi tôi lại không đủ tiền cho bà ấy chữa bệnh. Mỗi lần khám tốn những 30 đồng.”

Vào những năm ấy, 30 đồng đối với một nông dân Trung Quốc là một số tiền rất lớn.

thời kỳ đầu mới phát bệnh, Ðường Kim Tú không ra đồng làm việc được nhưng có thể nửa nằm nửa ngồi bế con. Ba năm sau bà bị căn bệnh quái ác làm cho biến dạng, toàn thân không thể duỗi thẳng, không thể cử động được nữa. Chỉ có cái đầu là còn động đậy. Từ đó, bà sống nửa đời còn lại trong cái giỏ mây của ông chồng. Ăn uống, tiêu tiểu... thảy đều do chồng săn sóc.

“Trước đây con gái giúp tôi một tay”, ông nói. Nhưng đến năm 23 tuổi, Triệu Kim Hoa, con gái ông, mắc bệnh viêm màng não rồi qua đời. Cái chết của Kim Hoa là một cú sốc cho vợ chồng ông. Tinh thần của bà Kim Tú ngày càng suy sụp...

Năm 1993, ông Thành quyết định rời quê nhà đi tìm cuộc sống mới. Ông đặt vợ vào một cái giỏ mây, tự mình gánh đi. Một người đồng hương viết lại hoàn cảnh khốn khổ của họ và bệnh của bà Kim Tú lên một tấm giấy lớn cho họ mang theo qua khắp các tỉnh thành của Trung Quốc.

Bà Kim Tú kể: “Chúng tôi đã qua 8 tỉnh rồi: Hồ Nam, Giang Tây, Triết Giang, Phúc Kiến... hôm nay mới đến được Phiên Ngung này”. Tuy thân thể bị teo nhỏ nhưng giọng của bà vẫn còn trong trẻo, đầu óc hãy còn minh mẫn.

“Ði khắp nơi để kiếm sống đương nhiên là không dễ chịu rồi. Nhưng buồn nhất là phải chịu đựng ánh mắt soi mói của mọi người.” Hồi ở Quý Châu, có một tạp chí bảo tôi mang vợ ra cho người ta chụp ảnh chung, họ sẽ cho tôi tiền nhưng tôi từ chối. Tôi thà đi ăn xin chứ nhất quyết không làm chuyện ấy. Có thời gian, mỗi ngày chúng tôi kiếm được bảy, tám chục tệ. Hôm nào may mắn, được hơn cả trăm tệ...”

Qua bao gian khó, ông Thành vẫn cứ gánh vợ bên mình, như là một bảo vật ông phải gìn giữ.

“Chúng tôi hai người cùng khổ, nhất định phải ở bên nhau rồi” – ông Thành vừa vắt khăn lau cho vợ, vừa tiếp tục câu chuyện. “Năm tôi lên 6 gặp cảnh mất mùa, cha mẹ đem tôi bỏ ngoài đường. Tôi phải đi làm thuê, chăn bò... để kiếm miếng ăn. Sau có người mai mối tôi với vợ tôi bây giờ. Còn vợ tôi, mới lên 3 thì cha mất, mẹ cải giá, dượng ghẻ đối với bà ấy không tốt lắm...” Ông nhìn vợ trìu mến: “Tôi không thể bỏ vợ được! Nếu bà ấy mà chết trước tôi không biết sẽ ra sao nữa!” Bà Kim Tú nằm trong giỏ nghe được câu nói tình cảm của chồng cũng bật cười: “Ðúng vậy! Nếu chẳng may ông ấy mà chết trước tôi cũng không thiết sống nữa!”

Bà nói tiếp: “Nhiều năm trước tôi từng nghĩ đến cái chết. Nhưng tôi chạnh nghĩ đến chồng, đến chị và em trai tôi còn ở quê nhà, tôi lại không muốn chết nữa. Ông ấy gánh tôi trên vai ba mươi năm, vất vả vô cùng. Tôi biết mình thật vô dụng. Những gì ông ấy đối với tôi, không thể một câu là kể hết được!”

Nói đến đây, bà khóc. Ông Thành lau nước mắt cho vợ, vỗ về: “Ðừng khóc nữa, mai chúng ta về quê...”

Họ ra bến xe Quảng Châu. Chuyến xe chiều ấy sẽ đưa họ về lại cố hương Tứ Xuyên. Nhìn cảnh ông già 60 tuổi gánh trên vai bà vợ 61 tuổi, lẻ loi ở bậc cửa xe, không ai mà không thấy xót xa...

Bích Tuyền
 
Lá Thư Từ Bên Kia Thế Giới

Bác sĩ Alizabeth Kubler Ross, người tiền phong trong lãnh vực nghiên cứu về hiện tượng hồi sinh cho biết: "Con người sợ chết như con nít sợ ma, họ đã nhìn cái chết một cách sợ hãi, ghê tởm và cố gắng phủ nhận nó vì nó làm gián đoạn sự liên tục của đời sống. Nhưng nếu họ biết chấp nhận sự chết một cách bình thản, giản dị thì họ sẽ thấy chết là một sự kiện tự nhiên cũng như lúc sinh ra vậy. Bất kỳ lúc nào chung quanh chúng ta, sống và chết cũng luôn luôn tiếp diễn. Lá cây rụng để nhường chỗ cho những mầm non xuất hiện, hết mùa đông lại có mùa xuân. Một hiện tượng tự nhiên và cần thiết như thế không lẽ lại chẳng bao hàm một ý nghĩa thâm sâu nào đó? Phải chăng chính vì có sự chết mà sự sống hiện hữu, có sự xây dựng thì cũng phải có sự hủy diệt, đâu có gì tồn tại vĩnh viễn. Người ta không thể hiểu được ý nghĩa đích thực của sự sống nếu họ không chịu chấp nhận sự chết, và đã đến lúc người ta phải nghiên cứu cặn kẽ các sự kiện này chứ không thể chấp nhận những lý thuyết mơ hồ nào đó được".

Sau đây là tài liệu được trích lại từ cuốn La revue spirite:

Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được. Ông không tin rằng có một linh hồn tồn tại sau khi chết vì thể xác chỉ là sự kết hợp của các vật chất hữu cơ và trí thông minh chẳng qua chỉ là sản phẩm của các tế bào thần kinh. Khi thể xác đã hư hoại thì trí thông minh cũng không thể tồn tại. Một hôm khi bàn chuyện với các con về đề tài đời sống sau khi chết, ông hứa sẽ liên lạc với các con nếu quả thật có một đời sống bên kia cửa tử. Cậu con trai Piere Desrives, cũng là một y sĩ, đã nói: "Nếu đã chết, làm sao cha có thể liên lạc với con được?" Bác sĩ Henri suy nghĩ một lúc rồi trả lời: "Cha không tin có một đời sống hay cõi giới nào ngoài đời sống này nhưng nếu sau khi chết mà cha thấy được điều gì thì cha sẽ tìm đủ mọi cách để liên lạc với các con". Vài năm sau, bác sĩ Desrives từ trần, các con ông vì bận việc nên cũng không để ý gì đến buổi bàn luận đó nữa. Khoảng hai năm sau, một nhóm nhân viên làm việc trong bệnh viện lập bàn cầu cơ chơi, bất ngờ cơ bút đã viết: "Xin cho gọi bác sĩ Piere Desrives đến vì tôi là cha cậu đó và tôi có mấy lời muốn nhắn nhủ với các con tôi". Ðược thông báo, bác sĩ Piere không tin tưởng mấy nhưng nhớ lại lời dặn của cha, ông bèn gọi các em đến tham dự buổi cơ bút này. Một người cầm giữ đầu một sợi dây, đầu kia cột vào một cây bút chì và chỉ một lát sau cây bút đã tự động chạy trên các trang giấy thành một bức thư như sau:

Các con thân mến,

Cha rất hài lòng đã gặp đủ mặt các con nơi đây. Gần một năm nay, cha có ý trông đợi để kể cho các con về những điều ở cõi bên này mà cha đã chứng kiến nhưng không có cơ hội.

Như các con đã biết, hôm đó sau khi ở bệnh viện về, cha thấy trong người mệt mõi lạ thường, cha bèn lên giường nằm và dần dần lịm đi luôn, không hay biết gì nữa. Một lúc sau cha thấy mình đang lơ lửng trong một bầu ánh sáng trong suốt như thủy tinh. Thật khó có thể tả rõ cảm tưởng của cha khi đó, nhưng không hiểu sao cha thấy trong mình dễ chịu, linh hoạt, thoải mái chứ không bị gò bó, ràng buộc như trước. Các con biết cha bị phong thấp nên đi đứng khó khăn, vậy mà lúc đó cha thấy mình có thể đi đứng, bay nhảy như hồi trai tráng. Cha có thể giơ tay giơ chân một cách thoải mái, không đau đớn gì. Ðang vẫy vùng trong biển ánh sáng đó thì bất chợt cha nhìn thấy cái thân thể của cha đang nằm bất động trên giường. Cha thấy rõ mẹ và các con đang quây quần chung quanh đó và phía trên thân thể của cha có một hình thể lờ mờ trông như một lùm mây màu xám đang lơ lửng. Cả gia đình đều đang xúc động và không hiểu sao cha cứ thấy trong mình buồn bực, khó chịu. Cha lên tiếng gọi nhưng không ai trả lời, cha bước đến nắm lấy tay mẹ con nhưng mẹ con không hề hay biết và tự nhiên cha ý thức rằng mình đã chết. Cha bị xúc động mạnh, nhưng may thay lúc đó mẹ con và các con đều lên tiếng cầu nguyện, tự nhiên cha thấy mình bình tĩnh hẳn lại như được an ủi. Cái cảm giác được đắm chìm trong những lời cầu nguyện này thật vô cùng thoải mái dễ chịu không thể tả xiết. Lớp ánh sáng bao quanh cha tự nhiên trở nên sáng chói và cả một cuộc đời của cha từ lúc thơ ấu đến khi trưởng thành bỗng hiện ra rõ rệt như trên màn ảnh. Từ việc gần đến việc xa, ngay cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất cũng đều hiện ra rõ rệt trong tâm trí của cha. Hơn bao giờ hết, cha ý thức tường tận các hành vi của mình, các điều tốt lành, hữu ích mà cha đã làm cũng như các điều xấu xa, vô ích mà cha không tránh được. Tự nhiên cha thấy sung sướng về những điều thiện đã làm và hối tiếc về những điều mà đáng lẽ ra cha không nên làm. Cả một cuốn phim đời hiện ra một cách rõ rệt cho đến khi cha thấy mệt mỏi và thiếp đi như người buồn ngủ.

Cha ở trong tình trạng vật vờ, nửa ngủ nửa thức này một lúc khá lâu cho đến khi tỉnh dậy thì thấy mình vẫn lơ lửng trong một bầu ánh sáng có màu sắc rất lạ không giống như màu ánh sáng lần trước. Cha thấy mình có thể di chuyển một cách nhanh chóng, có lẽ vì không còn xác thân nữa. Cha thấy cũng có những người đang di chuyển gần đó nhưng mỗi lần muốn đến gần họ thì cha lại có cảm giác khó chịu làm sao. Một lúc sau cha đi đến một nơi có đông người tụ họp. Những người này có rung động dễ chịu nên cha có thể bước lại hỏi thăm họ một cách dễ dàng. Một người cho biết tùy theo các rung động thích hợp mà cha có thể tiếp xúc được với những người ở cõi bên này. Sở dĩ cha không thể tiếp xúc với một số người vì họ có sự rung động khác với "tần số rung động" (frequency) của cha. Sự giải thích có tính cách khoa học này làm cha tạm hài lòng. Người nọ cho biết thêm rằng ở cõi bên này tần số rung động rất quan trọng, và tùy theo nó mà người ta sẽ lựa chọn nơi chốn mà họ sống. Cũng như loài cá ở ngoài biển, có loài sống gần mặt nước, có loài sống ở lưng chừng và có loài sống dưới đáy sâu tùy theo sức ép của nước thì ở cõi bên này, tùy theo tần số rung động mà người ta có thể tìm đến được các cảnh giới khác nhau. Sự kiện này làm cha cảm thấy vô cùng thích thú vì như vậy quả có một cõi giới bên kia cửa tử và cõi này lại có nhiều cảnh giới khác nhau nữa.

Khi xưa cha không tin những quan niệm như thiên đàng hay địa ngục nhưng hiện nay cha thấy quan niệm này có thể được giải thích một cách khoa học qua việc các tần số rung động. Những tần số rung động này như thế nào? Tại sao cha lại có những tần số rung động hợp với một số người? Người nọ giải thích rằng tùy theo tình cảm của con người mà họ có những sự rung động khác nhau; người có tình thương cao cả khác với những người tính tình nhỏ mọn, ích kỷ hay những người hung ác, không hề biết thương yêu. Ðây là một điều lạ lùng mà trước nay cha không hề nghĩ đến. Cha bèn đặc câu hỏi về khả năng trí thức, phải chăng những khoa học gia như cha có những tần số rung động đặc biệt nào đó, thì người nọ trả lời rằng, khả năng trí thức hoàn toàn không có một giá trị nào ở cõi bên này cả. Ðiều này làm cho cha ít nhiều thất vọng. Người nọ cho biết rằng cái kiến thức chuyên môn mà cha tưởng là to tát chẳng qua chỉ là những mảnh vụn của một kho tàng kiến thức rất lớn mà bên này ai cũng có thể học hỏi được. Người nọ nhấn mạnh rằng, điều quan trọng là con người biết làm gì với những kiến thức đó. Sử dụng nó để phục vụ hay tiêu diệt nhân loại? Sử dụng nó vào mục đích vị tha hay ích kỷ? Sử dụng nó để đem lại niềm vui hay để gây đau khổ cho người khác? Thấy cha có vẻ thất vọng, người này bèn đưa cha đến một thư viện lớn, tại đây có lưu trữ hàng triệu cuốn sách mà cha có thể tham cứu, học hỏi. Chưa bao giờ cha lại xúc động như vậy. Có những cuốn sách rất cổ viết từ những thời đại xưa và có những cuốn sách ghi nhận những điều mà từ trước tới nay cha chưa hề nghe nói đến. Sau một thời gian nghiên cứu, cha thấy cái kiến thức mà mình vẫn hãnh diện thật ra chẳng đáng kể gì so với kho tàng kiến thức nơi đây. Ðến khi đó cha mới thấm thía điều người kia nói về khả năng trí thức của con người và bắt đầu ý thức về tần số rung động của mình.

Nơi cha đang sống có rất đông người, đa số vẫn giữ nguyên tính nết cũ như khi còn sống ở thế gian. Có người hiền từ vui vẻ, có người tinh nghịch ưa chọc phá người khác, có người điềm đạm, có kẻ lại nóng nảy. Quang cảnh nơi đây không khác cõi trần bao nhiêu; cũng có những dinh thự đồ sộ, to lớn; có những vườn hoa mỹ lệ với đủ các loại hoa nhiều màu sắc; có những ngọn núi rất cao hay sông hồ rất rộng. Lúc đầu cha ngạc nhiên khi thấy những cảnh vật này dường như luôn luôn thay đổi, nhưng về sau cha mới biết cảnh đó hiện hữu là do sức mạnh tư tưởng của những người sống tại đây. Ðiều này có thể giải thích giống như sự tưởng tượng ở cõi trần. Các con có thể tưởng tượng ra nhà cửa dinh thự trong đầu óc mình, nhưng ở cõi trần sức mạnh này rất yếu, chỉ hiện lên trong trí óc một lúc mà thôi. Bên này vì có những rung động đặc biệt nào đó phù hợp với sự rung động của tư tưởng làm gia tăng thêm sức mạnh khiến cho những hình ảnh này có thể được thực hiện một cách rõ ràng, chính xác và lâu bền hơn.

Các con đừng nghĩ rằng những người bên này chỉ suốt ngày rong chơi, tạo ra các hình ảnh theo ý muốn của họ; mà thật ra tất cả đều bận rộn theo đuổi các công việc riêng để chuẩn bị cho sự tái sinh. Vì mọi tư tưởng bên này đều tạo ra các hình ảnh nên đây là môi trường rất thích hợp để người ta có thể kiểm soát, ý thức rõ rệt hơn về tư tưởng của mình. Vì đời sống bên này không cần ăn uống, làm lụng nên người ta có nhiều thời giờ theo đuổi những công việc hay sở thích riêng. Có người mở trường dạy học, có kẻ theo đuổi các nghành chuyên môn như hội họa, âm nhạc, kiến trúc, văn chương thơ phú v.v.... Tóm lại, đây là môi trường để họ học hỏi, trau dồi các khả năng để chuẩn bị cho một đời sống mai sau. Phần cha đang học hỏi trong một phòng thí nghiệm khoa học để sau này có thể giúp ích cho nhân loại. Càng học hỏi, cha càng thấy cái kiến thức khi xưa của cha không có gì đáng kể và nền y khoa mà hiện nay các con đang theo đuổi thật ra không lấy gì làm tân tiến lắm nếu không nói rằng rất ấu trĩ so với điều cha được biết nơi đây. Hiển nhiên khoa học phát triển tùy theo khả năng trí thức của con người, mỗi thời đại lại có những sự phát triển hay tiến bộ khác nhau nên những giá trị cũng vì thế mà thay đổi. Có những giá trị mà thời trước là "khuôn vàng thước ngọc" thì đời sau lại bị coi là "cổ hủ, lỗi thời"; và như cha được biết thì những điều mà ngày nay đang được người đời coi trọng, ít lâu nữa cũng sẽ bị đào thải. Tuy nhiên cái tình thương, cái ý tưởng phụng sự mọi người, mọi sinh vật thì bất kỳ thời đại nào cũng không hề thay đổi, và đó mới là căn bản quan trọng mà con người cần phải biết. Càng học hỏi cha càng thấy chỉ có những gì có thể tồn tại được với thời gian mà không thay đổi thì mới đáng được gọi là chân lý. Cha mong các con hãy suy ngẫm về vấn đề này, xem đâu là những giá trị có tính cách trường tồn, bất biến để sống theo đó, thay vì theo đuổi nhũng giá trị chỉ có tính cách tạm bợ, hời hợt.

Cha biết rằng mọi ý nghĩ, tư tưởng, hành động đều có những rung động riêng và được lưu trữ lại trong ta như một cuốn sổ. Dĩ nhiên khi sống ở cõi trần, con người quá bận rộn với sinh kế, những ưu phiền của kiếp nhân sinh, không ý thức gì đến nó nên nó khép kín lại; nhưng khi bước qua cõi bên này thì nó từ từ mở ra như những trang giấy phô bày rõ rệt trước mắt. Nhờ vậy mà cha biết rõ rằng hạnh phúc hay khổ đau cũng đều do chính ta tạo ra và lưu trữ trong mình. Cuốn sổ lưu trữ này là bằng chứng cụ thể của những đời sống đã qua và chính nó kiểm soát tần số rung động của mỗi cá nhân. Tùy theo sự rung động mà mỗi cá nhân thích hợp với những cảnh giới riêng và sẽ sống tại đó khi bước qua cõi giới bên này. Do đó, muốn được thoải mái ở cõi bên này, các con phải biết chuẩn bị. Cha mong các con hãy bắt tay vào việc này ngay. Các con hãy rán làm những việc lành, từ bỏ những hành vi bất thiện. Khi làm bất cứ việc gì, các con hãy suy gẫm xem hậu quả việc đó như thế nào, liệu nó có gây đau khổ hay tổn thương cho ai không? Ðừng quá bận rộn suy tính những điều hơn lẽ thiệt mà hãy tập quên mình. Ðời người rất ngắn, các con không có nhiều thời giờ đâu.

Khi còn sống, đã có lúc cha dạy các con phải biết đầu tư thương mại để dành tiền bạc vào những trương mục tiết kiệm, những bất động sản, những chứng khoán... nhưng bây giờ cha biết rằng mình đã lầm. Một khi qua đến bên đây, các con không thể mang nhũng thứ đó theo được. Danh vọng, địa vị, tài sản vất chất chỉ là những thứ có tính cách tạm bợ, bèo bọt, đến hay đi như mây trôi, gió thổi, trước có sau không. Chỉ có tình thương mới là hành trang duy nhất mà các con có thể mang theo mình qua cõi giới bên này một cách thoải mái, không sợ hư hao mất mát. Tình thương giống như đá nam châm, nó thu hút những người thương nhau thực sự, để họ tiến lại gần nhau, kế hợp với nhau. Nó là một mãnh lực bất diệt, mạnh mẽ, trường tồn và chính nhờ lòng thương này mà người ta có thể tìm gặp lại nhau trải qua không gian hay thời gian. Chắc hẳn các con nghĩ rằng người cha nghiêm nghị đầy uy quyền khi trước đã trở nên mềm yếu chăng? Này các con, chỉ khi nào buông xuôi tay bước qua thế giới bên này, các con mới thực sự kinh nghiệm được trạng huống của mình, tốt hay xấu, hạnh phúc hay đau khổ, thích hợp với cảnh giới thanh cao tốt lành hay những nơi chốn thấp thỏi xấu xa. Hơn bao giờ hết, cha xác định rằng điều cha học hỏi nơi đây là một định luật khoa học thật đơn giản mà cũng thật huyền diệu. Nó chính là cái nguyên lý trật tự và điều hòa hằng hiện hữu trong vũ trụ. Sự lựa chọn để sống trong cảnh giới mỹ lệ đẹp đẽ hay tăm tối u minh đều do những tần số rung động của mình mà ra cả và chính mình phải chịu trách nhiệm về cuộc đời của mình hay lựa chọn những nơi mà mình sẽ đến.

Khi còn sống cha tin rằng chết là hết, con người chỉ là sự cấu tạo của các chất hữu cơ hợp lại, nhưng hiện nay cha biết mình đã lầm. Cha không biết phân biệt phần xác thân và phần tâm linh. Sự chết chỉ đến với phần thân xác trong khi phần tâm linh vẫn hoạt động không ngừng. Nó đã hoạt động như thế từ thuở nào rồi và sẽ còn tiếp tục mãi mãi. Hiển nhiên các nhân của cha không phải là cái thể xác đã bị hủy hoại kia mà là phần tâm linh vẫn tiếp tục hoạt động này, do đó cha mới cố gắng liên lạc với các con để hoàn tất điều mà cha đã hứa với các con khi xưa. Cha nghiệm được rằng sự sống giống như một giòng nước tuôn chảy không ngừng từ nơi này qua nơi khác, từ hình thức này qua hình thức khác. Khi trôi chảy qua những môi trường khác nhau nó sẽ bị ảnh hưởng những điều kiện khác nhau; và tùy theo sự học hỏi, kinh nghiệm mà nó ý thức được bản chất thiêng liêng thực sực của nó. Cũng như sống biển có đợt cao, đợt thấp thì đời người cũng có những lúc thăng trầm, khi vinh quang tột đỉnh, lúc khốn cùng tủi nhục, nhưng nếu biết nhìn lại toàn vẹn tiến trình của sự sống thì kiếp người có khác chi những làn sóng nhấp nhô, lăng xăng trên mặt biển đâu! Chỉ khi nào biết nhận thức về bản chất thật sự của mình vốn là nước chứ không phải là sóng thì các con sẽ ý thức được tính cách trường cửu của sự sống. Từ đó các con sẽ có một quan niệm rõ rệt rằng chết chỉ là một diễn tiến tất nhiên, một sự kiện cần thiết có tính cách giai đoạn chứ không phải một cái gì ghê gớm như người ta thường sợ hãi. Ðiều cần thiết không phải là trốn tránh sự chết hay ghê tởm nó, nhưng là sự chuẩn bị cho một sự kiện tất nhiên phải đến một cách thoải mái, ung dung vì nếu khi còn sống các con đã đem hết khả năng và phương tiện của mình để giúp đời, để yêu thương mọi loài thì lúc lâm chung, các con chẳng có gì phải luyến tiếc hay hổ thẹn với lương tâm cả. Trước khi từ biệt các con, cha muốn nói thêm rằng hiện nay cha đang sống một cách thoải mái, vui vẻ và an lạc chứ không hề khổ sở.

Bác sĩ Henri Desrives.

* Nhà văn Nguyên Phong biên soạn và dịch thuật.
 
Mưa Máu Và Thịt


Thịt và máu từ trên trời rơi xuống sinh ra một hiện tượng lạ lùng hiếm có kể cả nghành kỹ thuật hiện đại quen thuộc với sự di chuyển của không khí cũng đành bó tay.

Mưa máu, và có vài vụ còn có cả thịt tươi, đã được ghi chép vào lịch sử trên toàn thế giới. Những hiện tượng lạ kỳ này đôi khi là nguyên nhân khiến người ta khiếp sợ, vì thường thường nó là một điềm xấu như ngày tận thế chẳng hạn.

Tại tiểu bang North Carolina (Mỹ) vào thế kỷ thứ 19, có hai vụ mưa máu và thịt từ trên trời rơi xuống đã được ghi nhận. Một vụ tại thị xã Sampson, còn vụ khác tại thị xã Chatham, và hai vụ này đã xảy ra cách nhau 34 năm.

Vụ mưa thịt đầu tiên xảy ra vào ngày 15 tháng 2 năm 1850 tại tiểu bang North Carolina, ngay trên nông trại của gia đình vợ chồng ông Thomas Clarkson, khoảng 34km về hướng Tây Nam thuộc thị trấn Clinton. Vào ngày xảy ra vụ này, một mẫu thịt từ trời rơi xuống đã được một người tên là Holland đưa đến Fayetteville để khảo nghiệm.

Những lời tường thuật của gia đình ông Clarkson về sự kiện này đã được ông Holland ghi lại và đăng trên báo North Carolinian, một tờ báo lớn tại thành phố Fayetteville. Ông ta nói rằng: Ngày 15 tháng 2 năm 1850, một cơn mưa máu và thịt đã rơi xuống ngay nơi gia đình ông đang cư ngụ, trong vòng một thửa đất 300m vuông. Những miếng thịt rơi xuống vẫn còn rất tươi, lẫn trong đó còn có gan, phèo, phổi và máu; và những giọt máu đọng trên những chiếc lá cây cũng có màu đỏ rất tươi.

Ba người con trai của ông là T. M. và C. khi thấy hiện tượng kỳ lạ này đã vội chạy vào nhà la ầm ĩ: “MẸ ƠI! THỊT TỪ TRÊN TRỜI RƠI XUỐNG.” Bà mẹ chạy vội ra ngoài thì mưa đã tạnh trời rất trong xanh nhưng khi bà nhìn xuống đất thì thấy những mảnh thịt vụn nằm rải rác khắp nơi. Người hàng xóm ở cạnh bên nghe tiếng kêu la cũng chạy vội ra ngoài và đã thấy như trên. Một đứa con của ông ta ở cách đó khoảng 125m cũng vội vã chạy đến và kể rằng, trong thời gian xảy ra hiện tượng này anh ta ngửi thấy mùi gì giống như máu và ngay lúc đó trên trời xuất hiện một đám mây màu đỏ.

Một mẫu thịt đã được ông Holland đưa đến phòng thí nghiệm để kiểm tra. Sau khi thí nghiệm bằng hai ống kính hiển vi tinh xảo nhất thì tất cả mọi người đều đồng ý rằng đó là máu và thịt thật, nhưng từ cái gì - con gì thì họ không biết được.

Vụ mưa máu thứ hai được ghi nhận cũng tại tiểu bang North Carolina xảy ra vào ngày 25 tháng 2 năm 1884. Bà Kit Lasater, vợ của một người nông dân da đen sống trên nông trại Silas Beckworth trong thành phố Hope Township thuộc tỉnh Chatham về phía Bắc của con đường Pittsboro-Raleigh Road, trong khi bà ta đang đứng trên một thửa ruộng mới cày xong gần nhà kho chỉ một khoảng cách ngắn nơi mà gia đình bà ta lúc đó đang cư ngụ, không biết từ đâu những giọt máu lã tã rơi trên lùm cây, trên hàng rào và chung quanh bà. Bà ta nói rằng khi hiện tượng này xảy ra, bầu trời lúc đó rất trong sáng không một đám mây che phủ.

Sự việc này được truyền miệng từ người này đến người kia, những người hiếu kỳ khi nghe sự kỳ lạ này đã đến tại chỗ để tìm hiểu. Những người đầu tiên đến nông trại là bạn bè và hàng xóm láng giềng nhưng khi tin tức lan truyền rộng rãi thì những người hiếu kỳ ở những nông trại xa hơn cũng tìm đến. Không bao lâu sự kiện kỳ lạ này đã được tờ báo Chatham Record đăng tải như sau:

“Rất nhiều người láng giềng sau khi nghe bà Kit Lasater kể về hiện tượng quái dị này, họ đã kéo nhau đến ngay tại chỗ để xem xét và đều nói rằng trên mặt đất – bao gồm một diện tích khoảng 6m vuông chu vi – bao phủ những vết dơ bẩn giống như máu, và trong số người đó có một người thấy được những giọt máu tươi còn đọng trên những chiếc lá và cành cây. Khi nghe tin này, chúng tôi liền báo tin cho một người bác sĩ có tiếng trong vùng đến điều tra và ông đã nói rằng đó chính thật là máu.”

Còn một người khác nữa có tên là Holleman, ông cũng là người đầu tiên đến tận chỗ xem xét và ghi lại từng chi tiết tỉ mỉ như sau:

“Một vùng đất, khoảng từ 4-6m vuông giống như một hình chữ nhật, rải rác những giọt đen bằng đầu ngón tay, cứ một vết cách nhau khoảng .1m. Những giọt nhỏ hơn thấm vào đất ngay lập tức còn những giọt lớn hơn rơi trên cây thì đông lại.”

Những đồ vật lấy từ nông trại như lá cây có dính máu hoặc đất cát có máu đều được đem đến Viện Ðại Học North Carolina nằm tại Chapel Hill cách đó chỉ vài cây số. Những thứ đó đã được Giảng Sư Hóa Học có tiếng tên là Francis Preston Venable khảo nghiệm. Giảng Sư Francis P. Venable là một giảng sư tài năng nhất trong vùng, ông ta đã nhận bằng Tiến Sĩ Hóa Học tại Viện Ðại Học Gottingen Ðức Quốc.

Lúc đầu, ông ta xem xét và thử nghiệm nhiều lần cùng với các bạn đồng nghiệp tại viện Ðại Học, nhưng vì hiện tượng máu từ trời rơi xuống quá lạ lùng làm cho mọi người đều nhắc đến nên ông đã đích thân đi thăm viếng nông trại tại thị xã Chatham để quan sát. Từ sự phỏng vấn trực tiếp với bà Lasater, ông có thể hiểu được những gì mà bà ta đã nhận xét:

“Máu rơi xuống từ một bầu trời không mây. Khi gió nhè nhẹ hầu như không cảm thấy được,” Giảng Sư Venable viết. “Nơi những giọt máu rơi được trông thấy trên hàng rào cho biết gió nhẹ từ phương Nam hay từ hướng Tây Nam thổi tới đi ngang qua mảnh đất cày cấy này. Người đàn bà đứng trên thửa ruộng đã cày xới, gần hàng rào, dọc theo hàng rào có trồng vài bụi thông nhỏ. Bà ta chú ý thấy cái gì đó rơi xuống đất chung quanh bà ta. Bà ta thấy nó rơi xuống từng giọt đỏ lòm tung tóe trên đất cát, bà ta còn nghe tiếng lộp cộp như mưa ở chung quanh. Bà nhìn lên trời và thấy những giọt máu đỏ đang rơi xuống như mưa sau đó bà không còn thấy gì nữa. Bà đã quá sợ hãi và xúc động đến cực độ vì bà nghĩ rằng đó là một dấu hiệu của ma quỷ hoặc là điềm xấu báo trước sự chết chóc...”

Sau khi trở về phòng thí nghiệm, Giáo Sư Venable đã sắp đặt vài cuộc thử nghiệm trên những thứ đã được lấy về từ nông trại. Ông ta dẫn vài chất hóa học và làm thí nghiệm qua máy quang phổ và kính hiển vi đã đưa ông đến kết luận rằng những thứ đó quả thật là máu, nhưng chính xác máu loại nào thì vẫn chưa biết được.

Giáo Sư Venable đã tóm tắc những gì mà ông ta tìm được trong những lời như sau:

“Những thứ được thí nghiệm này để lại rất ít hoặc không có lý do gì để hoài nghi rằng những thứ này không phải là máu. Nhưng câu hỏi chính là nó đã từ đâu đến, trong khi không có một con vật nào bị giết trên mảnh đất đó, như là heo không bao giờ bị thọc tiết tại cánh đồng này, như những sự giải thích lý luận riêng về một vật rơi xuống từ bầu trời không mây thì tôi không có những lời lẽ gì hợp lý để đưa ra.

Ðó có thể là những con chim tha một con mồi đang rỉ máu, nhưng không thể có nhiều máu rơi xuống trên một vùng đất rộng lớn như thế? Nếu đây là một trò đùa của những người láng giềng thì nó nhất định là một trò đùa làm rất khéo léo và vật thể có vẻ thiếu sót, cho nên chắc chắn đây là không phải trò đùa. Tôi thấy rằng sự kiện lạ lùng này đáng chú ý và cần rất nhiều sự giải thích chính xác.”

Ðáng tiếc thay, gần một thế kỷ trôi qua từ ngày Tiến Sĩ Hóa Học Venable phân tích mưa máu tại thị xã Chatham, North Carolina, cho đến bây giờ những nhà khoa học gia vẫn còn thất bại trong việc giải thích làm thế nào máu và thịt có thể từ trời rơi xuống.

John Hairr
 
Những Sự Trùng Hợp Lạ Thường

1. Một bộ kimono được nhiều người xem là mang lại điềm xui xẻo khi ba chủ nhân của nó, là ba thiếu nữ Nhật Bản, đều lần lượt qua đời trước khi có cơ hội mặc nó. Một thầy tu thấy nó quá “chết chóc” nên quyết định mang nó đi đốt vào tháng 2 – 1657. Khi bộ kimono đang bốc cháy, một trận gió lớn xuất hiện, thổi ngọn lửa vượt khỏi tầm kiểm soát của mọi người. Hậu quả là ngọn lửa từ bộ kimono này đã thiêu cháy 3/4 thành phố Tokyo, sang bằng 300 đền đài, 500 cung điện, 9,000 cửa hàng, 61 cây cầu và thiêu chết 100,000 người.


2. Một chiếc đồng hồ thuộc sở hữu của Vua Louis XIV (Pháp) đã ngừng chạy chính xác vào đúng vị vua này băng hà: 7 giờ 45 phút ngày 1-9-1715 và kể từ đó nó không bao giờ chạy lại nữa.


3. Trong cuộc tấn công ngày 25-1-1787 vào kho vũ khí liên bang ở Springfield trong cuộc nổi loạn của tướng Shay, chàng lính Jabez Spicer, ở Leyden, Massachusetts (Mỹ) đã bị giết chết bằng hai viên đạn của kẻ thù. Nhưng điểm đặc biệt là vào lúc đó, Jabez Spicer đang khoác trên người chiếc áo của anh ông ruột Daniel đã mặc và Daniel cũng đã bị bắn chết bởi hai viên đạn vào ngày 5-3-1784. Hai viên đạn giết chết Jabez Spicer đi chính xác vào các lỗ trên chiếc áo khoác do lần trúng đạn trước (của người anh Daniel) tạo nên. Chính xác từng viên một mặc dù ông anh Daniel đã bị bắn chết trước đó 3 năm.


4. Camille Flammarion, nhà thiên văn học nổi tiếng của Pháp ở thế kỷ 19, là một người nghiên cứu về những chuyện huyền thoại, đặc biệt là những chuyện ma quái liên quan đến cuộc sống sau cái chết. Trong quyển The Unknown, xuất bản năm 1900, ông kể lại một câu chuyện cũng khá ly kỳ. Khi ông viết một chương về ‘gió’ trong tác phẩm L’Atmosphère (Bầu Khí Quyển), một ngọn gió đã thổi tung cửa sổ nhà ông và nhấc bổng những trang giấy ông vừa viết xong và mang chúng đi mất. Một vài ngày sau đó, ông ngạc nhiên khi nhận được bản in thử từ nhà xuất bản (những trang bản thảo bị gió cuốn đi). Thì ra ngọn gió đã cuốn những trang bản thảo này ra ngay con đường mà một nhân viên của nhà xuất bản đi ngang qua, người mà thường đến nhận bản thảo của Flammarion mang đến nhà xuất bản. Người này chỉ việc nhặt những trang giấy và mang chúng đến nhà xuất bản như thường lệ.


5. Năm 1883, Henry Zieglan ở vùng Honey Grove, Texas (Mỹ) đã phản bội người yêu đến nỗi cô ta phải tự tử. Ah của cô gái này quyết định trả thù bằng cách xách súng bắng Ziegland, nhưng viên đạn chỉ sướt qua mặt của Ziegland và vắm vào một thân cây gần đó. Người anh cô gái nghĩ rằng mình đã trả thù được cho em nên sau đó cũng tự sát. Năm 1913, Ziegland quyết định đốn ngã cây có viên đạn trong đó. Vì gặp khó khăn trong việc đốn cây nên Ziegland quyết định dùng đến chất nổ và vụ nổ này đã đưa viên đạn ngày xưa bay thẳng vào đầu Ziegland giết chết anh ta ngay lập tức.


6. Ðầu cuộc chiến Thế Giới Thứ Hai, tình báo Pháp đã bắt được một gián điệp người Ðức tên là Peter Karpin ngay khi y xâm nhập vào lãnh thổ. Tuy nhiên, họ giữ bí mật cuộc vây bắt này khiến Karpin trốn thoát vào năm 1917, tình báo Pháp gửi các báo cáo giả đến các sếp của Darpin và nhận tất cả tiền bạc mà phía Ðức gửi sang Pháp cho Karpin. Số tiền này được sử dụng để mua một chiếc xe hơi, mà vào năm 1919, đã cán chết một người đàn ông ở Ruhr. Nạn nhân của tai nạn không ai khác hơn là tay gián điệp đào tẩu Peter Karpin.

* Trích từ tập san Chí Linh dựa theo Mysteries of the Unexplained.
Tamlinh.com
 
Rắn Trong Bụng


Những chuyện thật lạ lùng chúng ta không bao giờ nghĩ đến nó có thể xảy ra như câu chuyện sau đây:

Yeter Yildirum 15 tuổi là một người con gái Thổ Nhĩ Kỳ đã đau khổ vô cùng vị chứng bệnh đau bụng kinh niên kéo dài hơn 5 năm trường. Cô đã từ một người con gái ngây thơ vui nhộn có nhiều bạn bè trở thành một người cô độc phải chịu đau đớn từng cơn vì bị cái bụng nó hành và có khi còn kéo thêm cái chứng nhức đầu. Vì sống trong một vùng nông thôn ít dân cư nên chuyện cô bị bệnh ai cũng biết cũng vì thế mà mọi người lo sợ không dám lại gần. Gia đình cô phải dọn đi cách xa cái làng đó đến 80 dặm. Càng ngày chứng bệnh càng nặng ba má cô phải đưa cô vào nhà thương. Sau khi khám nghiệm và chụp hình xong bác sĩ gặp ba má của cô ta và nói:

- Cái này không sao hết. Chúng tôi sẽ làm một cuộc giải phẫu để lấy những con rắn từ trong bụng của con ông bà ra.

- RẮN GÌ??? Hai ông bà la lên trong sự kinh ngạc....

Khi nhìn hình quang tuyến bác sĩ đã thấy 3 con rắn nước nằm trong bụng của cô gái. Có thể cô ta đã nuốt những cái trứng của con rắn khi uống nước từ một giòng suối gần nơi cô ở, và chúng nó đã nở ra và sống ở trong bụng của cô hơn 5 năm trời. Những con rắn này chỉ lớn hơn sợi chỉ một chút xíu và dài khoảng một gan tay. Cô ta đã bình phục ngay sau khi giải phẫu.

*** Câu chuyện này đã được tăng trên báo Daily Star ngày 28/6/79.
 
CHA CÓ SỮA CHO CON BÚ


Một người đàn ông góa vợ ở Tích Lan (Sri Lanka) đã gây chú ý cho giới y khoa vì vú ông có sữa để cho đứa con bú.

Ông B. Wijeratne, 38 tuổi, ở Walapanee, gần thủ đô Colombo, kể rằng:

- Sau khi bà vợ của tôi từ trần cách đây 3 tháng trong lúc sanh đứa con gái thứ nhì thì con gái Nisansala, đứa con gái đầu lòng 18 tháng tuổi, không chịu uống sữa bột khi tôi cố gắng cho nó bú qua một cái chai. Vì không đành lòng nhìn nó khóc mãi nên tôi cho nó bú từ ngực tôi.

Ông ngạc nhiên khi thấy đứa con hết khóc, và càng ngạc nhiên hơn khi thấy sữa chảy ra từ ngực mình.

Lúc đầu nhiều người không tin đây là chuyện có thật. Nhưng các bác sĩ tại một bệnh viện công đã chứng nhận rằng Wijeratne thực sự sản xuất “sữa mẹ” từ ngực ông. Ngoài sự kiện lạ này, thân thể ông Wijeratne hoàn toàn bình thường.

Bác Sĩ Kamal Jayasinghe nói với tờ báo Lankadeepa rằng:

- Ðây là một trường hợp hiếm có, nhưng chẳng phải là không thể xảy ra. Những người đàn ông nào có kích thích tố prolactin (kích thích tố sản xuất sữa) quá mạnh trong người thì ngực họ có thể tiết ra sữa.

Trong khi đó, rất may cho người đàn ông sống trong cảnh gà trống nuôi con này.

Ðứa con 18 tháng thì không chịu bú sữa bột nhưng đứa con sơ sanh thì chịu bú sữa bột từ chai.
 
Biến Mất Vào Hư Không

Một câu chuyện lạ kỳ mà tôi chú ý nhiều nhất là câu chuyện về đứa con trai của một gia đình nông dân người Gia Nã Ðại tên là Michael Norton, 12 tuổi, bỗng dưng biến mất vào một buổi sáng mùa Ðông khoảng 60 năm về trước.

Cuộc tìm kiếm cậu bé đã diễn ra liên tục trong nhiều năm trời; bởi vì, mặc dù cậu bé biến mất, không thấy được thân thể vật chất, nhưng cha mẹ của cậu bé và hàng trăm người điều tra viên đều nghe được tiếng gọi yếu ớt của Michael trong vòng một khu đất chỉ vài ba thước.

Ngày xảy ra sự việc, Michael đã ngủ quá giấc. Khi cậu bé hối hả xuống lầu ăn buổi điểm tâm sáng trước khi ra chuồng gia súc để vắt sữa bò như mọi ngày, lúc đó cha mẹ và người dì của cậu bé cùng với hai người nông phu làm việc cho cha cậu bé cũng có mặt; họ đang ăn sáng và cùng nhau trò chuyện. Vài phút sau, mẹ của cậu bé nhìn cậu lê những bước chân mệt nhọc nặng nề đi về hướng chuồng bò... Nhưng bà ta không thể ngờ rằng đó là lần cuối cùng bà nhìn thấy đứa con trai của mình.

Vài giờ sau, ngạc nhiên về sự vắng mặt của Michael nên ông Ruth Norton (cha cậu bé) lên tiếng gọi:

- Michael ơi! Hãy về nhà đưa hai đứa em đi học không thôi sẽ trễ giờ.

Sau khi réo gọi vài lần vẫn không thấy cậu bé vào nên ông Norton bực mình mang đôi giầy da vào rồi ra ngoài để lôi cổ cậu bé về.

Khi ông ta đi vào chuồng bò thì thấy một chiếc ghế đẩu và một cái xô sữa mới vắt được một nữa vẫn để ở đó nhưng cậu bé lại đi đâu mất.

Sau khi tìm kiếm khắp mọi nơi vẫn không thấy bóng dáng cậu bé, nên ông kêu gọi tất cả mọi người trong gia đình và những người làm hãy việc lục soát từng nơi trong nông trại kể cả những vùng phụ cận nhưng tông tích của cậu con trai vẫn biệt tăm.

Linh tính có sự việc gì không may xảy ra, ông Norton đã vội vã lái xe đến trại cảnh sát ở gần đó báo cáo về sự mất tích của đứa con trai mình. Vài tiếng sau cảnh sát đến nông trại cùng với chú chó đánh hơi. Sau khi đưa con chó ngửi chiếc áo Michael đã mặc thì con chó lấy mũi ngửi dò theo dấu vết của Michael, nó dẫn từ cửa nhà bếp ra đến chuồng bò rồi sau đó đi thẳng đến đồng cỏ ở phía Nam nhưng khi đến giữa đồng thì nó bỗng nhiên ngừng lại. Với sự ngạc nhiên, người huấn luyện thúc đẩy con chó đi tới trước nhưng con vật chỉ đứng yên một chỗ rồi sủa lên vài tiếng.

Vết tích đã mất! Chuyện gì đã xảy ra vậy? Không ai có thể giải thích được. Có vài nhóm người chuyên môn huấn luyện chó đánh hơi để tìm người mất tích, cũng dẫn những con chó điêu luyện đến nhưng cũng không tìm được tông tích gì cả. Những con chó đánh hơi chỉ ngửi đến giữa cánh đồng thì không chịu đi nữa...

Sau những đêm dài chờ đợi, khi niềm hy vọng tìm lại đứa con trai còn sống sót của họ bắt đầu héo dần thì cả gia đình hớn hở khi nghe tiếng gọi ở bên ngoài, đó là Michael và cậu ta đã gọi một tiếng “Me” mà không một đứa con trai nào khác trong vùng gọi mẹ như vậy.

Cả nhà vội vã chạy ra sân, la lớn trong sự vui mừng... nhưng họ đã ngưng lại ngay vì không thấy ai cả ngoài một màn đêm dầy đặc! Rồi tiếng gọi lại vang lên: “Me!” rõ ràng là Michael, cha mẹ của cậu bé nhận ra tiếng của con trai mình. Họ rọi đèn tìm kiếm nhưng vẫn không thấy cậu bé Michael đâu cả. Họ gọi tên của cậu bé nghe inh ỏi cả một vùng trời, như xé nát cả màn đêm âm u tĩnh mịch... nhưng vẫn không thấy cậu trả lời có chăng chỉ là những tiếng kêu Michael loãng trong màn đêm xa vắng.

Nửa tiếng sau, trong khi họ đang đứng trên sân nhà với sự thất vọng tràn trề thì lại nghe tiếng cậu bé tha thiết gọi “Me” và lần này cậu ta còn nói thêm: “Me ơi! Me đang ở đâu vậy?”... Cha mẹ cậu bé đã kể lại như vậy.

Nhiều người đã đến nông trại và nghe cái tiếng lạc loài cầu cứu của cậu bé mà đau lòng. Mọi người đều cho rằng có thể cậu bé đã rơi vào một giòng sông cạn nằm sâu trong lòng đất, một cái giếng cũ lâu đời, hoặc là bị té xuống một kẻ nứt trong lòng đất. Nhưng những cái giả thuyết này đã bị loại bỏ khi một nhóm người chuyên môn về địa thế đến xem xét vùng đất này. Họ đã dùng máy chụp ảnh trên không trung để tìm những rãnh nứt dưới lòng đất, nhưng không thấy dấu hiệu nào chứng tỏ có đường nứt trong lòng đất trên cánh đồng nơi cậu bé đã mất dạng.

Vào những tuần lễ kế tiếp, cha mẹ của cậu bé và những người hàng xóm nghe tiếng nói xa vời của Michael Norton từ từ nhỏ dần theo ngày tháng. Cậu bé như là ở trong một nơi sương mù dầy đặc nhưng có quyền di chuyển tự do. Sau một thời gian thì tiếng nói của cậu bé im bặt...

Michael Norton đã thật sự biến mất vào hư không!

Nhiều người cho rằng: Có thể có cánh cửa vô hình nào đó đã mở ra trong hư không mà nơi đó Michael đã rơi hoặc bị cuốn hút vào? Cái đó như là một thể vẫn (hóa học) của những quy luật bình thường được thấy bởi con mắt người nhân gian như là một “màn sương khói” hoặc vài sự kiện khác như sự biến đổi của ánh sáng chẳng hạn? Và có thể vì sự kiện lạ kỳ này đã làm cho Michael để ý đến? Và cậu bé đã chạy ra cánh đồng để nhìn cho biết vì vậy bị cuốn hút vào con mắt trong cái kim của thời gian (the “eye” in the needle of time) chỉ một thoáng giây?

* Trích từ “What’s Out There?” do nhà xuất bản Sterling Publishing Co, Inc. ấn hành và Tamlinh chuyển ngữ.

tamlinh.com
 
Lời Nguyền Của Người Tử Tội


Năm 1821, tại thị xã Newtown Montgomeryshire thuộc nước Wales1, có một người đàn ông tên là John Newton mang tội giết người và được đưa ra trước tòa để thẩm phán. Ðứng trước quan tòa ông ta khẳng định tuyên bố rằng ông là người vô tội, nhưng dựa vào những chứng cớ của hai người mà ông ta nói rằng họ sẽ được lợi ích nếu ông chết đi, cho nên những lời ông nói đều vô hiệu. Cuối cùng ông ta bị kết án và xử tử treo cổ.

Nhìn thẳng vào quan tòa với ánh mắt nẩy lửa, Newton thét lớn:

- TÔI VÔ TỘI! TÔI LÀ NGƯỜI VÔ TỘI! ÐỂ CHỨNG MINH ÐIỀU ÐÓ, TÔI SẼ KHÔNG CHO NGỌN CỎ XANH TƯƠI NÀO MỌC TRÊN MỒ CỦA TÔI. MÃI MÃI KHÔNG CÓ NGỌN CỎ TƯƠI XANH NÀO MỌC TRÊN NGÔI MỒ CỦA TÔIIIII!

Vài ngày sau, John Newton đã bị treo cổ công khai trước quần chúng. Thật là kỳ lạ khi lễ xử tội bắt đầu thì bỗng đâu một cơn bão kéo tới sấm sét vang rền làm những người có mặt tại hiện trường đều ngạc nhiên và lo sợ...

Sau khi ông Newton chết, xác của ông được chôn trên mảnh đất sau một thánh đường thuộc vùng ngoại ô thành phố.

Khu nghĩa địa này là một mảnh đất xanh tươi với những ngọn cỏ được bón phân cắt tỉa mỗi tuần với những mộ bia nằm từng hàng thẳng tắp trong thật đẹp mắt, nhưng từ khi xác của John Newton được chôn ở đây thì miếng đất này không được hoàn mỹ giống như xưa. Ấy là vì giữa một tấm thảm cỏ xanh mướt lại có một khoảng đất hình chữ nhật trơ trọi mọc một loại cỏ dại bò chung quanh theo khuôn khổ của chiếc quan tài nằm bên dưới.

Mỗi ngày những dân cư đi qua đều có thể trông thấy ngôi mộ của Newton vì thế mặc cảm tội lỗi và nỗi đau buồn về một kẻ bị giết oan càng ngày càng tăng dần trong khu thị xã nhỏ này. Ðể xóa đi những cảm giác ấy, chính quyền địa phương đã nghĩ ra một cách nếu cỏ không tự mọc trên ngôi mộ này được thì họ có thể trồng cỏ lên trên đó. Họ đem những thứ đất tốt đổ lên ngôi mộ trải ra cho đều, sau đó họ rải những hạt cỏ lên rồi tưới nước rất cẩn thận. Nhưng nhiều ngày trôi qua không một hạt cỏ nào nẩy mầm.

Và vài tháng sau người ta lại tìm đủ mọi cách để trồng cỏ, cứ như vậy người ta lại trồng cỏ bón phân tưới nước nhưng trải qua nhiều năm một cọng cỏ xanh tươi cũng không thể mọc được trên nấm mồ của người đàn ông Welsh này.

Vào năm 1852 một vị giáo sĩ tên là Robert Mostyn Price đã đứng lên biện hộ cho người đàn ông bị treo cổ.

Ông ta viết:

“Ðã ba năm trôi qua mà chúng ta không thể trồng cỏ trên nấm mồ này cho dù chúng ta đã dùng đủ mọi cách, đủ mọi phương pháp nhưng một cọng cỏ cũng không thể mọc lên. Vì vậy tôi cùng nhiều người khác tin rằng đây là sự chứng minh “vô tội” của người đàn ông đáng thương.”

Nhưng khó có thể làm cho người ta chấp nhận được sự thật rằng quan tòa đã xử án sai lầm để một người đàn ông vô tội phải chết. Cho nên một lần nữa họ lại gắng sức làm cho cỏ mọc trên ngôi mồ của Newton bằng cách đổ lên đó một thứ đất phân thật tốt, rồi cấy những cây cỏ xanh tươi dễ trồng nhất rồi tưới nước và chăm sóc rất kỹ lưỡng.

Mọi người hồi hộp chờ đợi. Cuối cùng thì người ta cũng thấy được những cây cỏ mới cấy bắt đầu trổ lá non; lúc đó ai cũng hớn hở vì cỏ đã mọc được trên nấm mồ Newton rồi như vậy họ sẽ không còn cảm thấy mặc cảm tội lỗi bao trùm trong bầu không khí chung quanh đây nữa. Nhưng tiếc thay chỉ qua một đêm, những loại cỏ dại đã bò lên dầy đặc nuốt chửng mất những cây cỏ xanh tươi vừa mới bắt đầu trổ lá non. Không biết tại sao loại cỏ này lại mọc nhanh như thế? Mọi người không ai có thể hiểu nổi có lẽ chỉ có linh hồn người quá cố nằm bên dưới quan tài mới biết được.

Cũng từ đó không ai màng đến việc trồng cỏ lên ngôi mộ của ông Newton nữa vì họ biết rằng cho dù có trồng thì cũng vô dụng... vì vậy mảnh đất nhỏ xấu xí này tiếp tục đứng vững trong vùng đất xanh mướt màu cỏ non ...

Cho đến thế kỷ sau, năm 1941, một người đến viếng khu nghĩa địa này vẫn có thể chỉ đúng ngay ngôi mồ của Newton, một mảnh đất có nhiều cỏ dại bò ngổn ngang theo khuôn của chiếc quan tài vẫn còn nằm giữa mảnh đất xanh tươi đẹp đẽ, đó là chứng cớ thầm lặng về sự phán xét sai lầm của tòa án với lời nguyền của người đàn ông nước Wales.

_________________

(1) Wales là một nước nhỏ nằm cạnh bên nước Anh về hướng tây.

* Trích từ quyển “Murder Will Out” do nhà sách Sterling Co. ấn hành
Tamlinh.com
 
Quái Vật Ăn Linh Hồn

Câu chuyện này đã xảy ra mười chín năm về trước nhưng nó vẫn ẩn hiện trong tâm trí tôi như sự việc mới xảy ra ngày hôm qua...

Ðó là một buổi sáng mùa hè, khi bóng tối từ từ lui dần nhường chỗ cho ánh bình minh đang chiếu rạng khắp nơi, tôi và Paul (người bạn thân nhất) sau khi ăn sáng xong cùng rủ nhau vào khu rừng cạnh nông trại của bà nội bạn ấy để thám hiểm.

Khu rừng này nằm ở phía Tây Nam thuộc tiểu bang Missouri (Hoa Kỳ) không cách xa ngọn núi Ozark lắm. Ðịa thế của nó là một vùng đồi núi mọc dầy đặc những cây xanh to lớn. Tuy thuộc tiểu bang Missouri nhưng nó chạy dài đến tận thành phố Kansas, đó là một nơi được nhiều người biết đến vì nó có tới một trăm, không phải, một ngàn cái hang động. Chúng tôi đi cách nông trại vài cây số về hướng Tây, chỉ có Thượng Ðế mới biết đất đai này thuộc về ai khi chúng tôi tìm thấy một cái chồi cũ đổ nát. Cái chồi này bề ngang khoảng 6 thước và bề dài không hơn 8 thước, nó chỉ còn lại 3 bức tường, mái nhà thì đổ xuống dọc theo bức tường sụp, dù vậy quý vị vẫn có thể đi vào bên trong từ cửa trước nhưng chỉ đi được vài thước mà thôi. Là những thiếu niên 12 tuổi có tánh hiếu kỳ, chúng tôi chỉ làm có bấy nhiêu...

Nhìn từ những phương hướng khác nhau thì nó giống như một cái lều hoặc cái chồi được dựng lên bởi một người nào đó bị lạc đường hoặc một người chán đời muốn sống ẩn cư vì nó trông rất là thô sơ với những khúc gỗ dài ngắn không đều nhau được ghép lại bằng một lớp bùn khô. Bên trong chồi, ngoài dấu vết của một cái lò củi và một cái đầu giường làm bằng tay - hầu như bị che khuất nằm ở một góc - còn mọi thứ khác đều bị che lấp bởi mái nhà sụp đổ tạo thành một bức tường chắn ngang không cho chúng tôi dò xét thêm.

Chúng tôi lục lọi một hồi chung quanh nơi có nhiều nhánh cây non và đá sỏi nằm rải rác xung quanh cái sàn đầy bụi cát, vì đã lâu không ai đến đây ở nên mọi thứ hầu như đã tàn phai theo năm tháng. Xem không thấy gì đặc biệt, với lại rời nông trại từ sáng sớm đi bộ và leo núi đã mệt nhọc rồi bây giờ thấy cái bụng cồn cào vì vậy chúng tôi đành rời cái chồi nhỏ để trở về nông trại ăn trưa và nghỉ ngơi sau đó sẽ thám hiểm tiếp.

Khi rời căn nhà chồi, chúng tôi đi vòng ra sau và rất ngạc nhiên khi thấy những dấu hiệu kỳ lạ khắc lên những khúc gỗ trên bức tường phía sau; những dấu hiệu lạ lùng đó đa số đều bị thời tiết tàn phá nên khó mà nhận ra được là ám tự gì, nhìn thật kỹ thì quý vị vẫn có thể thấy được vài hình vẽ như cái khuôn được nối tiếp bằng nhiều dấu chấm giống như toán hình học, những hình không tương xứng. Có vài dấu hiệu đối với chúng tôi thì giống như là những chữ Phạn ngữ vào thời xa xưa, thật ra thì cũng không giống lắm. Rất tiếc tôi không còn nhớ rõ để vẽ ra làm thí dụ.

Chúng tôi dò thám xa hơn thì thấy cách đó khoảng sáu thước, từ bức tường sau căn nhà chồi, chúng tôi thấy một tấm ván lớn gần mục nát, hình như nó được đậy trên một cái lỗ. Chúng tôi vội đến đó cúi xuống khảo sát gần hơn. Nơi đây chúng tôi lại thấy những dấu hiệu, giống như dấu hiệu viết trên bức tường sau, vẽ tràn lan trên tấm ván gỗ đó. Nó bị thời tiết phá hủy nên khó mà nhận ra được là chữ gì. Tôi lấy ngón tay trỏ thử nhấn mạnh quanh bìa miếng gỗ, lúc đó chúng tôi cảm giác lành lạnh hình như không khí đang thoát ra ngoài theo những chỗ hở mà tôi đã làm.

- Tao chắc rằng đây là một cái nắp đậy lối vào của một hang động. Tôi nói.

Paul vội tiếp lời:

- Chúng ta thử xem.

Nói xong bạn ấy liền đứng dậy tìm những cục đá lớn nhỏ chất đầy trên tấm ván, sau đó bạn ấy lấy một tảng đá thật lớn giơ cao hơn đầu rồi liệng thật mạnh xuống ngay chính giữa làm tấm ván gỗ nát ra thành nhiều mảnh để lộ ra một cái lỗ lớn; chúng tôi có thể nói đó là lối vào của một hang động.

Chúng tôi rụt rè thò cái đầu vào hang động để xem chiều sâu của nó là bao nhiêu. Chúng tôi lấy làm thích thú lẫn ngạc nhiên thấy rằng đầu dốc hơi nghiêng nằm trong bóng tối không có sâu lắm và có thể đi vào được. Vui mừng vì sự thám hiểm tìm kiếm của chính chúng tôi về cái hang động này nên chúng tôi bàn tính phải nhanh chân trở về nông trại để lấy đèn bin, dây nhợ, và đem theo một mớ đồ ăn trưa.

Trên đường trở về nhà, chúng tôi bàn thảo với nhau rằng nếu bị bắt quả tang trong khi lấy những vật dụng đó thì không nên nói sự thật cho mọi người biết. Paul thận trọng nói:

- Ba mẹ của chúng ta sẽ không để cho chúng ta chui vào hang động thám hiểm một mình đâu nếu không có người giám sát coi chừng chúng ta.

Tôi gật đầu đồng ý.

Chúng tôi chạy thật nhanh, nhanh đến nỗi chúng tôi trở về nông trại chưa đầy một tiếng đồng hồ. Mặt trời lúc đó ngay trên đỉnh đầu và rất nóng vì đang cuối hè.

Về đến nơi, thay vì đem theo đồ ăn trưa, chúng tôi đổi ý ăn cơm trưa tại nhà. Chúng tôi ăn thật nhanh rồi gom vội những vật dụng cần thiết - may thay không có ai thấy - sau đó, chúng tôi bay ra khỏi nhà trong tích tắc.

Chúng tôi mang theo hai cây đèn bin, một cuộn dây thừng rắn chắc dài khoảng 35 thước, và một bình nước uống rồi đi thẳng vào rừng sâu.

Vì vị trí căn chồi này không nằm trên bản đồ nên chúng tôi phải đi quanh co để định hướng, cuối cùng trèo lên đỉnh của một ngọn đồi thấp chúng tôi mới nhìn thấy cái chồi đổ nát và miệng của hang động.

Lần này, chúng tôi có cảm giác bất an, hình như có gì đó không được bình thường, không khí chung quanh có mùi hôi hám rất là khó ngửi.

Chúng tôi dừng lại xem xét những dấu hiệu lạ lùng trên bức tường một vài giây trước khi đi vào hang động; thật khó mà biết được những dấu tích bí ẩn này tượng trưng cho cái gì, hoặc có ý nghĩa gì. Mặc kệ cái cảm giác khó chịu từ lúc đầu bao quanh, Paul và tôi cũng không để cho sự yếu đuối của mình cản trở cuộc thám hiểm sâu vào hang động.

Chúng tôi cột một đầu dây trong một thân cây khô gần miệng hang động vài thước còn đầu kia thì bỏ xuống lỗ hang, vì là người đã tìm được nhiều hang động trong vùng hơn tôi nên Paul dành đi trước để rọi đường. Paul bò đến gần miệng hang và bám lấy sợi dây từ từ bò vào hang động. Vừa bò bạn ấy vừa bấm sáng đèn bin rọi xuống dưới hang, lúc đó chúng tôi mới biết rằng cái hang động này còn đi xuống sâu nữa để rồi chìm khuất trong bóng tối. Ðứng trên miệng hang dõi mắt nhìn theo bạn ấy, tôi đợi chờ bạn ấy báo hiệu rằng trong hang động rất là an toàn có thể xuống. Chưa đầy 30 giây sau, tôi nghe vang lên một tiếng la kinh hãi của Paul theo sau là một tiếng “bụp”.

- Chuyện gì? Tôi la lớn.

- Ồ, không có gì. Tao nghĩ đi xuống tí nữa thì sẽ tới cuối hang nhưng bất ngờ hết dây tao bị rơi thẳng xuống dốc, may mắn thay chỉ rơi khoảng 1 thước. Bạn ấy trả lời.

- Bây giờ mày có thể xuống được rồi, đi từ từ thôi và coi chừng cái chỗ rơi thẳng xuống đó.

Mặc dù không thấy dễ chịu lắm, tôi cũng nắm sợi dây và bắt đầu đi xuống vào trong hang tối. Ðến hết sợi dây tôi từ từ thả mình nhẹ nhàng rơi xuống đất. Khi đứng ở dưới an toàn tôi mới nhìn lên cái miệng hang nhỏ xíu cao khoảng 13 thước mà chúng tôi vừa chui vào, sau đó tôi nhìn ở phía trước con đường hầm của hang động giống như một cái mạch mỏ than đá chỉ trừ là nó lấp lánh với măng đá và chuông đá. Tôi thấy bên trong hang này chiều cao khoảng 2 thước và chiều ngang gần 3 thước, nó rất ẩm ướt nhưng không thấy có nước đọng lại, đó có nghĩa là nó còn đi xuống sâu hơn nữa.

Cẩn thận bước qua chướng ngại do sự hình thành của hang động tạo ra, chúng tôi đi sâu vào hang động. Ðường hầm dẫn xuống sâu và sâu hơn như cái vực thẳm.

Càng đi xuống sâu vào lòng đất, tôi càng kinh ngạc bởi thiếu vắng sự hiện hữu của những côn trùng và động vật. Cho dù trong hang động nhỏ, quý vị vẫn có thể tìm thấy phân của côn trùng hoặc những cái màng nhện nhưng trong hang động này thì hoàn toàn không thấy dấu tích của bất cứ sự sống nào; còn một điều kỳ lạ nữa mà chúng tôi để ý đến là càng đi xuống sâu hơn thì nhiệt độ lại càng ấm áp hơn thay vì càng ngày càng lạnh hơn. Quý vị cũng biết cho dù chỉ có vài thước dưới lòng đất thì nhiệt độ cũng đã xuống thấp khoảng 10 đến 15 độ rồi, nhưng nhiệt độ trong hang động này lại ấm áp lạ thường và không khí dường như bị tù hãm và nặng nề.

Chúng tôi tiếp tục đi xuống qua cái đường hầm dài giống như một cầu thang xoắn ốc không có bậc thang cho đến khi nó nhỏ hẹp lại và thẳng dốc hơn. Từ lúc đầu chúng tôi không cần dùng dây hay dụng cụ an toàn nào thì bây giờ chúng tôi phải cẩn thận để ý nhiều hơn. Tại điểm này chúng tôi đã ở dưới lòng đất gần sáu chục thước, nhưng không có một dấu hiệu nào cho thấy ở dưới này còn hang động khác để thám hiểm thêm. “Thật ra, cái hang động này cũng đáng để thám hiểm lắm” tôi nghĩ như vậy.

Sau 15 phút hơn liên tục đi xuống, Paul và tôi cuối cùng đã đến đáy của đường hầm xoắn óc, đến tận cùng rồi. Ðó có thể là hết cuộc thám hiểm nếu chúng tôi không thấy một cái lỗ nhỏ gần mặt đất. Nó cao khoảng ½ thước và chiều ngang khoảng 1/3 thước. Paul nằm dài xuống mặt đất, lấy đèn bin rọi vào trong lỗ rồi đút cái đầu vào.

- Hay quá. Bạn ấy nói với một giọng vui mừng. Có một thành hốc khác. Tao nghĩ chúng ta có thể chui qua cái lỗ này. Ðể tao thử xem.

Bạn ấy chui vào cái lỗ, thân mình trường tới rồi uốn qua uốn lại như con rắn cuối cùng cũng qua được. Biết rằng chỉ ốm hơn Paul một tí ti như vậy thì tôi sẽ không gặp nhiều khó khăn. Sau những cái uốn qua uốn lại, tôi đã qua được. Vừa phủi bụi từ quần áo xuống tôi vừa đứng thẳng lên chiếu đèn bin chung quanh xem xét. Cái thành hốc này có một cảm giác kỳ quái lắm, dù vậy chúng tôi cũng không thấy có gì khác thường hết.

Trần thành hốc cao ít nhất 10 thước và riêng cái phòng ốc này đường kính có lẽ rộng từ 12 đến 15 thước. Ở trên tường hoặc dưới đất tại đây tương đối nhẵn, trần nhà và cái sàn đều không dính một chút bụi bậm. Người ta có thể đoán cái phòng ốc này là cái lỗ rỗng của một cái giếng nước trong lòng đất nhưng vẫn giữ khô ráo từ lúc nước rút xuống. Chúng tôi rọi đèn bin lên tường tìm kiếm đến khi tôi ra ý kiến hãy tắt đèn để xem nó thật sự tối đến đâu (đó là một sự thích thú để làm trong hang động vì không có bóng tối nào có thể so sánh được). Quý vị có thể tưởng tượng sự sửng sốt của chúng tôi khi chúng tôi tắt đèn mà vẫn có thể thấy mặt của nhau trong cái hang hoàn toàn đen tối không?

Không có bất cứ một nguồn ánh sáng nào mà toàn bộ phòng ốc lại tỏa sáng một màu đỏ chói. Bức tường có vẻ chiếu sáng và sống động một màu đỏ đậm và sáng hơn với mỗi thời khắc trôi qua, dường như chúng tôi đang đánh thức nó dậy từ một giấc ngủ ngàn năm. Chúng tôi mở đèn bin lên và bắt đầu kiếm chung quanh phòng để tìm ra manh mối vì sao bức tường lại phát ra ánh sáng kỳ lạ như vậy.

Xa trong một góc phòng, ánh đèn bin của tôi phát hiện một hiện tượng vô cùng rùng rợn.

Tôi thấy cái gì đó trông giống những khúc xương khô trong bộ quần áo rách rưới nằm chung quanh một cái sọ vỡ; và gần đó cách khoảng nửa thước lại có một cái sọ khác, cái sọ này được chẻ cẩn thận ra làm đôi và cũng nằm cạnh những khúc xương vụn nhưng nhỏ hơn. Trong đống này, tôi thấy cái gì đó như miếng vải len viền áo của một đứa bé gái hoặc áo đầm của phụ nữ. Paul cũng để ý đến những gì mà tôi đang chăm chú nhìn mà cả hai đều không thể tưởng tượng được. Vừa dự định đến gần hơn để nhìn cho kỹ, bỗng nhiên tôi nghe một tiếng nói làm ớn lạnh đến tận xương tủy.

Tôi rõ ràng nghe một tiếng con gái nói thầm thì trong tai. “Ði ra!” tiếp theo tiếng nói như thúc giục. “Chạy đi!”

Tôi sợ quá nhìn Paul và bạn ấy cũng đã nghe thấy, lúc đó chúng tôi lùi dần gần đến lỗ ra của phòng ốc.

Bỗng dưng cái sàn rung chuyển và một tiếng kêu vo ve bắt đầu vang dội cả phòng ốc. Tôi quá kinh hãi chạy thụt lùi lại, Paul nhanh chân chạy theo. Mặt đất rung động thật mạnh, tôi sợ đó là dấu hiệu của sự động đất và cái phòng ốc này sẽ sập xuống chôn vùi chúng tôi.

Tôi đã chạy đến lỗ ra của phòng ốc mà nó bây giờ trông nhỏ xíu không khác cái lỗ con chuột nhũi, tôi chui vào cái lỗ trườn tới và uốn qua uốn lại. Ở phía sau tôi nghe Paul hối thúc, khép hai chân lại tôi lấy cùi chỏ chống thân mình cố gắng đẩy về phía trước. Sau khi trở ra con đường hầm, tôi quay người lại giúp Paul. Bạn ấy gắng sức trường tới, nhưng cũng không thể chui qua nhanh được. Nếu không hiểu biết, tôi còn tưởng cái lỗ đó nó teo lại trước cặp mắt của tôi nữa.

Paul cứ gắng sức và gắng sức chui ra nhưng vẫn không qua lọt. Tôi vội liệng cái đèn bin xuống đất rồi lấy hai tay kéo bạn ấy. “Ouch” (Ao) Bạn ấy la lớn. Tôi nghĩ có lẽ mình kéo mạnh quá nên Paul đau, nhưng bạn ấy nhìn tôi với cặp mắt sợ hãi với giọng nói run run:

- Có gì đó nắm chân của tao! Có gì đó nắm chân tao! Kéo mạnh lên. Bạn ấy hét.

Dồn hết sức, tôi kéo mạnh một lần nữa, cuối cùng bạn ấy cũng qua được. Khi đôi chân của bạn ấy vừa ra khỏi lỗ thì tôi nhận thấy, từ ánh đèn bin tôi đã liệng dưới đất, có dấu giống như dấu tay - một bàn tay mà không giống một bàn tay - in trên bắp đùi của bạn ấy. Nó có hình thù lồi lõm của một bàn tay quá cỡ hoặc là bàn chân không có móng. Nó gần giống như một cái bóng, trong suốt. Ðó là tất cả những gì mà tôi trông thấy bởi vì khi Paul vừa ra khỏi lỗ, bạn ấy đứng dậy chạy thật nhanh và tôi cũng quay đầu chạy theo bỏ cả cái đèn bin của tôi ở đó.

Tại vì Paul vẫn còn đèn pin nên tôi lên tiếng Paul hãy chờ tôi với, nghe tôi kêu bạn ấy chạy hơi chậm lại vừa đủ để tôi bắt kịp.

Chỉ trong chốc lát, tiếng vo ve ngân lên càng lớn và lớn hơn, ánh sáng từ cái phòng ốc bên dưới bắt đầu chiếu sáng con đường hầm; từ phía sau chúng tôi có một mùi hôi như thịt thối bắt đầu bao trùm lấy chúng tôi. Nó thúi đến nỗi chúng tôi muốn chết nghẹt luôn.

Chúng tôi té lên té xuống, ra sức chạy càng nhanh càng tốt. Tác dụng xoắn óc của đường hầm làm mất hướng và nỗi khiếp sợ bắt đầu xâm chiếm lấy chúng tôi. Nếu Paul không bị té hay đụng đầu thì tôi lại bị, lối thoát dẫn đến mặt đất có vẻ dài vô tận. Chúng tôi đã quẹo và trèo lên nhiều lần, thay vì cái ánh sáng từ bên dưới phải rời xa ở đằng sau chúng tôi nhưng nó lại càng ngày càng gần hơn, sáng hơn, chiếu sáng cả đường hầm bên dưới một màu đỏ như máu. Cuối cùng, chúng tôi đã đến đường hầm dài và thẳng hơn cũng là nơi dẫn đến rìa dốc cuối của lối ra hang động. Paul và tôi cố lấy sức chạy nhanh để lấy khoảng cách xa giữa chúng tôi và ánh sáng bên dưới và hầu như để chạy trốn mùi hôi thúi; nhưng, tiếng vo ve vẫn càng ngày càng lớn trong một mức độ cao hơn như là tiếng còi hụ của đoàn tàu xe lửa.

Paul và tôi đến rìa dốc cùng một lúc, nhưng cả hai chúng tôi đều bàng hoàng vì không thấy ánh sáng chiếu vào từ cửa hang, tất cả đều chìm trong bóng tối.

Chúng tôi chỉ ở trong hang khoảng ba mươi phút thôi, có nghĩa bây giờ bên ngoài vẫn còn là buổi trưa, nhưng sao chúng tôi không thấy ánh mặt trời rọi vào. Paul rọi đèn bin lên nơi cái lỗ hang mà chúng tôi đã chui vào làm chúng tôi sợ run cả người... sợi dây đã biến mất và miệng hang đã bị lấp lại bằng một tấm ván gỗ mà trước đây đã đậy. Paul và tôi cùng nhảy lên dốc và bắt đầu lê cái thân về phía cửa hang. Nó không có dốc lắm nhưng cứ leo lên được hơn 1/2 thước thì chúng tôi lại bị tuột xuống ¼ thước, vì vậy mà hơi chậm. Ánh sáng bên dưới lại bắt đầu xâm lấn chúng tôi, tiếng vo ve vang dội hơn và vẫn còn ở mức độ cao. Chúng tôi cuối cùng đã đến cửa hang và bắt đầu tìm cách để thoát ra ngoài. Chúng tôi đẩy và đẩy cái tấm gỗ nhưng nặng quá chúng tôi đành chịu thua.

Không còn cách nào khác, chúng tôi đành la lớn để cầu cứu, vừa la chúng tôi vừa lấy tay đập mạnh trên tấm ván gỗ. Ánh sáng bên dưới hình như đã đến cái dốc cuối và nó đang lao về phía chúng tôi với một vận tốc nhanh như chớp.

Chúng tôi vừa bịt mắt lại vì ánh sáng chói lòe vừa la thật lớn muốn bể lồng ngực. Tự nhiên tức thì, ánh sáng bỗng mờ dần và biến mất trong bóng tối giống như nó rút từ trần nhà xuống sàn như một cơn sóng nước; tiếng vo ve chợt tắt hẳn và mùi hôi thúi cũng tiêu mất, lúc đó chỉ còn lại tiếng thở nặng nề của hai đứa chúng tôi mà thôi.

- Caaái giiii`... caaái giiii`... vaaậy? Tôi hỏi và cố gắng lấy lại hơi thở đã mất vì sợ hãi.

Tao không biết. Hãy tìm cách ra khỏi đây đi. Paul trả lời rồi bạn ấy chiếu đèn bin vòng quanh bìa cái nắp gỗ để tìm xem có gì để chúng tôi có thể dùng làm một điểm bắt đầu không. Sau đó, hai đứa chúng tôi lại đập lên tấm ván gỗ.

Rồi không dấu hiệu cảnh cáo hay báo trước, chúng tôi bỗng nghe rầm bên dưới theo sau là một tiếng mà đã đem cho tôi ác mộng đến ngày hôm nay, một tiếng ùn ục rợn người đang dâng lên đường hầm như vũ bão. Ðèn bin của Paul chợt tắc và chúng tôi bị chìm vào trong bóng tối, hoàn toàn tăm tối. Tiếng ùn ục càng ngày càng đến gần, bây giờ chúng tôi quá độ kinh sợ để mà la lên. Tôi nhớ là mình đã dựa sát vào tường đá toàn thân đơ cứng vì sợ hãi. Tôi không thể nói, không thể cựa quậy, không thể thấy, mà chỉ biết im lặng để lắng nghe trong khi tiếng ùn ục bắt đầu chuyển thành như một tiếng hú khi nó bay lên đường hầm hướng về phía chúng tôi giống như một chiếc xe lửa điện chạy 100 km/giờ. Không khí bừng nóng cùng với một cơn gió rít xoáy mạnh chung quanh chúng tôi xen lẫn với tiếng kêu gào của một đứa con gái ngay trong tai tôi.

Trong lúc tôi như muốn xỉu vì quá sợ thì cảm thấy có gì đó hơi cứng lao nhanh qua chúng tôi rồi phóng vào nắp gỗ như một viên đạn pháo vô hình. Những mảnh gỗ bể rớt xuống và ánh sáng mặt trời tràn vào làm hiện rõ khuôn mặt sợ sệt của chúng tôi. Như đọc được tư tưởng của nhau, chúng tôi phóng khỏi hang động, tôi trước sau đó đến Paul. Chúng tôi nhanh nhẩu đứng dậy phủi hết lớp bụi bậm dính quần áo. Không biết là nên chạy hay ngã quỵ, chúng tôi nhìn nhau đợi chờ xem ai hành động trước thì một người đàn ông mặc áo len đi vòng ra từ cửa trước căn chồi, tóc ông ấy dài và bù xù, trên khuôn mặt cằn cõi của ông có nhiều nếp nhăn ngang dọc.

Ðôi chân muốn chạy nhưng đầu óc lại bất đồng, có gì đó về người đàn ông này đã làm chúng tôi ở lại, cái gì đó không đe dọa mà lại rất an lành. Ông ta bước từng bước chầm chậm đến chúng tôi, trong khi tiếng rú cứ lớn dần như thể nó đang từ hang động bay vút ra ngoài, lượn một vòng chung quanh những thân cây ở gần đó để trở lại thanh toán chúng tôi; chúng tôi nghe tiếng cây gẫy răn rắt trong khoảng cách như là nó đang ủi tất cả những gì cản đường nó. Một lần nữa, chúng tôi lại đứng chết trân trong sợ hãi, yếu sức để ngăn chận cái gì đó đang bay nhanh về hướng mình. Lúc này, người đàn ông với vẻ mặt lo âu khi vừa mới xuất hiện bây giờ đã biến thành một vẻ mặt cương quyết như sắt đá, ông ta giơ cao hai cánh tay lên trời và bắt đầu đọc lẩm bẩm vài câu ngôn ngữ gì đó mà chúng tôi không thể nhận ra hay hiểu được.

Tiếng hú càng ngày càng lớn vang vọng cả núi đồi. Giờ đây chúng tôi mới thấy được một cái bóng màu đen, giống như một cụm mây đen như nhọ nồi nhưng chưa đủ để kết thành một khối đặt. Nó bay xuống đồi, làm gẫy rạp những cây cối nhỏ ở giữa nó như là những cây diêm quẹt nằm trong hộp. Ông già hốc hác liền bước tới chận đứng con đường của nó tiến về phía chúng tôi, rồi ông ta tiếp tục lẩm bẩm những ngôn ngữ kỳ lạ. Lúc này, những lời ông đọc dường như vang xa và dội lại xuyên qua rừng núi như tiếng hú của một con chó sói.

Quái vật dường như chậm lại, và nếu có chân, nó đang lùi bước.

Ánh sáng lại bắt đầu phát ra từ lối vào hang động, nhưng lần này không phải là màu đỏ như máu chúng tôi đã thấy khi trong hang động mà là một ánh sáng màu trắng, nó chói sáng đến nỗi chúng tôi không thể nhìn thẳng vào nó được. Hình như quái vật đang chống cự lại cái ánh sáng này, nhưng thất bại, nó đã bị lôi xuống lỗ và thét lên một tiếng nghe điếc tay để kháng cự.

Ánh sáng chói loà đó dường như bao trùm con quái vật và đưa nó về trong lòng đất sâu. Tiếng la rên rỉ đã lặng yên, ánh sáng rút xuống sâu trong hang động cùng với tù nhân của nó rất nhanh chóng như khi xuất hiện.

Bàng hoàng với những gì không thể tưởng được làm chúng tôi sửng sốt chỉ biết đứng nhìn chăm chú vào ông già. Sau khi ánh sáng cùng quái vật rút xuống hang động, ông ta mới đi tới cái miệng hang rồi vẫy tay một cái thì tấm gỗ đậy bị bể lại một lần nữa thành nguyên vẹn. Những dấu hiệu mà chúng tôi thấy trước đó bây giờ lại từ từ hiện ra như mới được khắc lên trên tấm ván. Sau khi làm xong nhiệm vụ, ông già mới chú ý đến chúng tôi và hỏi chúng tôi có bị thương tích không. Paul và tôi cùng xem xét thân thể, ngoại trừ trầy da đầu gối và khuỷu tay ra chúng tôi chỉ bị dơ quần áo vì đất cát với mồ hôi nhỏ giọt, vì vậy chúng tôi chỉ gật đầu mà không nói gì.

- Hai đứa đã gần tiêu tại đây rồi. Ông già nói.

- Ai?... Ý tôi là... Cái gì đó? Paul nói lắp bắp.

- Nó ác, dữ tợn và bất diệt. Các con có thể gọi nó là yêu ma hay ác quỷ.

Ông ta ngừng khoảng một chốc rồi tiếp:

- Nó là cả hai mà không phải cả hai.

Ông ta nói với một giọng trầm xuống.

- Ðiều quan trọng là nó không thể ăn nữa, nó càng mạnh mẽ hơn nếu nó ăn được.

Nói đến đây gương mặt ông già bỗng trở nên âu sầu, ông ta đi qua mặt chúng tôi bước về hướng căn chồi đến cái bức tường hậu hướng vách với cửa vào hang động. Ông ta tụng vài câu ngôn ngữ lạ kỳ và những dấu hiệu như biến mất bây giờ lại xuất hiện, nhìn rất mới như vừa được khắc lên. Sau đó ông ta đi vòng ra đằng trước chồi rồi biến mất.

Paul và tôi nhìn nhau không nói một lời nào rồi cùng chạy theo ông già vòng ra đằng trước căn chồi sụp để hỏi ông già thêm vài thông tin.

Chúng tôi càng ngạc nhiên hơn khi không tìm thấy dấu vết gì cả, chỉ vài giây thôi sao ông già lại đi nhanh thế, ông ta chắc chắn không có vào trong chồi để ẩn núp. Chúng tôi gọi lớn, chạy vòng quanh căn chồi, chạy cả lên trên đồi để nhìn xem ông ta có chạy trốn không, nhưng cũng không thấy bóng dáng ông ta đâu hết. Lạ thật, sao không có dấu chân cũng không nghe tiếng chân đi, dường như ông ấy đã biến mất như làn khói mỏng manh.

Bây giờ với tình trạng ngỡ ngàng và bối rối, chúng tôi lại trở vào căn chồi để xác định rằng ông ta không có trốn ở trong đó. Lần này chúng tôi đẩy cái mái nhà bị xụp đổ để tìm kiếm và chúng tôi đã tìm được... Một cái xác cứng đơ gần như mục rã hết của một người đàn ông mặc đồ giống hệt như ông già đã giúp chúng tôi chỉ vài phút trước đây. Trong lòng bàn tay của xác chết chúng tôi thấy có một tấm hình trắng đen cũ rích nằm trong một cái khung bể sậm màu.

Paul nhẹ nhàng lấy tấm hình đó từ tay của thi thể rồi đưa lên nơi có ánh nắng rọi vào. Trong hình là một người đàn ông khỏe mạnh, có lẽ đó là hình dáng của ông ta lúc còn trẻ đã cùng với người vợ và đứa con gái đứng chụp trước một nông trại sang trọng trông họ rất là hạnh phúc.

Paul để tấm hình lại chỗ cũ. Lúc đó, chúng tôi để ý thấy cái gì đó nằm gần chân giường, tôi cúi xuống phủi lớp bụi bám ở trên mới biết đó là một quyển sách. Tôi cầm lên và mở ra xem từng trang. Đó là một quyển nhật ký.

- Tao chắc rằng mình sẽ tìm được những câu trả lời ở trong đây. Tôi vừa nói vừa kẹp nó vào nách. Thôi chúng ta hãy rời khỏi chỗ này ngay đi.

- Tao cũng nghĩ vậy! Paul nói.

Chúng tôi lại lấy tay đẩy những thứ đồ nằm chắn đường để vạch lối đi ra. Sau khi rời khỏi căn nhà chồi chúng tôi chạy một mạch về nông trại như những con ong bay nhanh về tổ, và con đường về nhà lần này sao chúng tôi thấy dài vô tận. Chúng tôi hai đứa không nói một câu gì trên con đường về, mỗi đứa đều ngẫm nghĩ và ước luợng những sự việc vừa mới trải qua.

Vừa đến nông trại chúng tôi vội tắm cho sạch sẽ bằng cái vòi nước ở sau vườn rồi chúng tôi vào trong nhà uống vài ly nước lạnh, lúc đó chúng tôi mới biết rằng không có đứa nào đem bi đong đựng nước về. (Cho đến hôm nay tôi vẫn không biết việc gì đã xảy ra cho những bình nước uống và sợi dây thừng! Có thể nó bị rớt đâu đó trong đường hầm khi chúng tôi trên đường tìm cách thoát thân.)

Khi cảm thấy khỏe khoắn và tương đối an toàn, chúng tôi mới lấy cuốn nhật ký cũ gần rách nát đem lên một căn phòng trống trên lầu và bắt đầu đọc từng trang. Hầu hết những sự việc trong quyển nhật ký này đều nói về hang động và gì đó ở dưới lòng đất mà chúng tôi không hiểu vào thời đó. Những trang sách đều ghi đầy những ý nghĩ rối loạn và vắn tắc, còn chữ viết thì khỏi nói rất khó đọc. Cho đến vài năm sau này đọc đi đọc lại nhiều lần thì tôi mới có thể hiểu được một chút ít về sự việc đã xảy ra chung quanh hang động.

Từ đó tôi mới biết rằng:

Vào cuối năm 1890, ông cùng vợ và đứa con gái đã dọn đến vùng đồi núi xây một căn nhà thật đẹp. Họ sinh sống bằng nghề chăn nuôi và trồng hoa màu trên mảnh đất mà họ làm chủ.

Có một ngày, đứa con gái đi vào rừng để thám hiểm cùng với người bạn ở cạnh nhà... Ðây chỉ là một cuộc thám hiểm bình thường thôi bởi vì theo ông ta ghi chép, đứa con gái của ông ta thà là phiêu lưu mạo hiểm, luôn luôn vào rừng để thám hiểm, nếu không đi hướng này này thì con gái của ông cũng đi hướng kia, chứ không chịu ở nhà.

Từ khi bị té trật chân không tự một mình về nhà đã làm mọi người lo lắng đổ xô đi tìm mới thấy cô con gái ngồi ở dưới một gốc cây trong rừng, từ đó thì ba mẹ cô gái bắt buộc cô ta muốn vào rừng thì phải rủ thêm một người nữa cùng đi nếu không thì cô không thể vào rừng được.

Và vào một ngày mùa thu, khi cả khu rừng nhuộm một màu vàng úa, cô bé cùng một người bạn gái đã vào rừng thám hiểm và không bao giờ trở ra nữa.

Tối hôm đó, ông ta và vợ cùng với gia đình người bạn gái tìm kiếm khắp khu rừng; cho đến cả ngày hôm sau, cảnh sát trưởng cùng những nhân viên đều chia nhau đi tìm, và những gia đình hàng xóm cũng góp tay trong việc tìm kiếm. Mặc dù tất cả mọi người kiếm tìm khắp nơi nhưng hai cô con gái vẫn biệt tích. Hai tuần trôi qua, không thể chịu được, ông ta cùng với người vợ tiếp tục lục soát từng con đường mòn đến từng hang động chung quanh nơi ở của họ. Trong lúc tìm kiếm, họ đã khám phá ra lối vào của một hang động mà từ trước đến giờ không ai biết nó hiện hữu. Lo sợ cho đứa con gái cũng đã khám ra cái hang động này nên họ quyết định đi vào để xem.

Vào hang động được hơn một thước, người mẹ tìm được sợi vải cột tóc thường ngày của đứa con gái dính đầy máu khô. Ðiên cuồng và mất trí với nỗi đau thương, người mẹ bắt đầu chạy xuống xâu hơn nữa. Người đàn ông, từ từ đi khập khễng vì bị bong gân mắt cá chân khi mới bước chân vào hang động, vì vậy mà khó có thể thuyết phục người vợ dừng lại đợi chờ ông ta. Ông ta khuyên răn người vợ nên trở về nhà để kéo thêm người đến giúp.

Mặc ông ta có khẩn thiết van xin bà hãy trở lại nhưng người vợ vì quá nóng lòng tìm con nên bà ta cứ cấm đầu chạy xuống hang động tối đen, bà ta vừa chạy vừa gào thét tên đứa con gái của bà. Biết rằng chân mình bị trật không thể nào vào sâu trong hang động được nên ông ta đành ở lại cạnh lối vào hang để chờ đợi và lắng nghe tiếng vợ của ông ra hiệu hoặc trở lại với những gì mà bà ta tìm được. Đó là lần cuối cùng mà ông thấy vợ của mình còn sống.
Ông ta nghe được tiếng vợ mình kêu tên của đứa con gái, Emily, lập đi lập lại nhiều lần, và từ từ nhỏ dần khi bà ta xuống sâu dưới hang động. Rồi, không một dấu hiệu báo trước có điều không may xảy ra, ông ta bỗng nghe vợ ông ta thét lên một tiếng kinh hoàng. Nhắm mắt lại trong nỗi buồn tuyệt vọng, nghĩ rằng vợ ông đã tìm thấy thân xác nhỏ bé của con gái mình nên ông gọi vọng vào, nhưng không một tiếng đáp lại. Vào lúc đó ông mới nếm được những gì mà tôi và Paul đã chịu đựng.

Những gì ông ta cảm nhận và chứng kiến cũng giống những gì chúng tôi đã kinh nghiệm được, bắt đầu như là một trận động đất rung chuyển. Ông ta gọi vợ hãy trở lên vì sợ bà ta bị chôn vùi nhưng không một tiếng trả lời. Sau đó ông nghe thấy tiếng vo ve càng ngày càng lớn vang lên, tiếng kêu lạ kỳ không phải người. Sợ đó có thể là dã thú, nên ông cố gắng bò ra ngoài. Ông vội vã rời xa hang động đến núp sau một thân cây ngay dưới chân đồi gần đó.

Ông ta nghe cái tiếng rú càng ngày càng lớn và thấy một ánh sáng màu đỏ chói chiếu ra từ hang động, khi ánh sáng đỏ tan mất thì một cái bóng đen phóng ra khỏi hang như một viên pháo đại bác.

Cái bóng đen bay lên không khoảng 20 thước rồi quay trở về, hình như nó đang cầm gì đó. Khi nó đáp xuống đất, ông ta mới thấy đó là một cánh tay của vợ ông. Ông ta thấy cánh tay đã bị xé ra máu chảy đầy miếng vải màu xanh bị rách nát từ chiếc áo đầm vợ ông mặc. Cái bóng đen tiếp tục ăn... nó xé thịt ra từng mảnh, máu chảy đầy dẫy, dường nó cần máu hơn là cần thịt.

Ông ta viết rằng khi quái vật dính đầy máu thì nó trở nên cứng rắn hơn.

Biết rằng quái vật vừa mới giết vợ mình, và cả đứa con gái cùng người bạn, ông nhè nhẹ lén đi ra sau ngọn đồi, rồi chạy nhanh một mạch về nhà mặc cho chân mình xưng lên và đau buốt. Oán hận và tức giận với sự đau buồn, ông phóng nhanh vào nhà chụp ngay cây súng, nhét thật nhiều bao đạn vào trong túi áo và bỏ đạn vào khẩu súng rồi lên đạn. Để trả thù, ông bắt đầu chạy trở lại chỗ ẩn núp gần chân núi nhưng không thấy bóng con quái vật đâu. Ông ta cẩn thận bò từ từ đến nơi xảy ra cảnh hãi hùng gần cửa hang. Máu dính đầy trên cỏ và lá khô, những mảnh áo đầm của vợ ông bị xé nát từng sợi khó mà nhận ra được. Có những mảnh thịt nhỏ đỏ tươi nằm rải rác chung quanh, nhưng không có mảnh nào lớn để đủ nhận biết đó là con người.

Đau lòng tận cùng, ông quỵ xuống và bắt đầu khóc như mưa. Ông ở đó vài phút, bàn tay ông di động trên những miếng thịt vụn máu me để tìm kiếm vài thứ gì đó có thể nhận diện ra, như là những cọng tóc từ cái đầu của vợ ông bị dính trên một mảnh vải rách. Cảnh tượng người vợ và đứa con gái chết thảm thiết cứ ám ảnh trong đầu ông và lần nữa ông lại điên lên với cơn giận tột đỉnh. Ông ta đứng dậy, giơ cao cây súng rồi kêu lớn để con quái vật ra ngoài. Ông la lớn xuống hang, ông hét lớn vào thinh không, ông gào thét điên cuồng. Chẳng bao lâu con quái vật xuất hiện.

Tiếng hú vang dội trên đồi sau lưng ông là con quái vật, bây giờ gần như rắn chắc hơn.

Ông diễn tả con quái vật: Nó là một con vật màu đen có một lớp da dầy, mỗi lần nó di chuyển có một làn khói đen bay theo giống như cục than đen đang cháy bị giội nước lăn long lóc xuống đồi. Cặp mắt của nó màu đỏ chói như hai cái giùi nóng. Con quái vật lao đến ông, đôi tay của nó dang rộng với móng vuốt nhọn hoắc như dao lưỡi lìm sẵn sàng cắt ông ra làm hai khúc. Ông bình tĩnh cầm súng nhắm và chờ đợi đến phút cuối cùng khi ông cảm thấy hơi thở nóng bỏng phà vào mặt lúc đó ông mới bóp cò. Cái thân trên của con quái vật nổ tung thành một đám bụi đen nhưng thân dưới của nó vẫn còn tiếp tục tiến tới vật mạnh ông xuống đất rồi đè lên thân thể ông.

Nó quằn quại co giật trên người ông trong khi ông vùng vẫy bên dưới sức nặng của nó, nhưng từ từ nó biến thành đám bụi đen không có trọng lượng rơi xuống như đống tro tàn. Cuối cùng ông đã có thể đứng dậy. Ông lấy lại hơi thở rồi nhìn chung quanh, bỗng một luồng gió không biết từ đâu thổi đến rất mạnh mẽ, nó là một lực hút từ sau lưng ông kéo theo không khí chung quanh rồi thổi qua ông. Ông gắng sức chạy nhanh đến núp sau một thân cây nhỏ trong khi những đống bụi đen của con quái vật một lần nữa lại tụ hợp thành một cái bóng mờ nhạt, nó từ từ tiến về phía hang động. Ông lại nhắm vào nó bắn thêm một lần nữa trước khi nó khuất dạng, nhưng viên đạn của ông đã bay xuyên qua đám bụi đen trúng vào thành vách của lối vào hang động. Nó không còn cứng rắn nữa, giờ đây nó chỉ là một đám mây đen.

Ông chạy đến cửa hang nhìn xuống, trong hang tăm tối ông nghe một tiếng rên rỉ yếu ớt rồi lặng thinh. Ông quay lại đi khập khễng về nhà.

Dựa trên nhật ký, ông có đến thăm viếng gia đình cha mẹ người bạn của đứa con gái và đã giải thích cặn kẽ những sự việc đã xảy ra. Sau đó họ cùng nhau đến hang động lấy những thân cây gỗ hoặc những tàng cây chết bỏ đầy xuống lỗ để ngăn chặn bất cứ ‘cái gì’ muốn xuống hoặc ra ngoài hang cho đến khi một công trình xây cất chắc chắn hơn được dựng lên.

Theo sau là chi tiết về những đám tang, rồi việc bàn thảo về cuộc xây dựng cái gì đó cứng rắn để đậy lối vào hang động, và vì sao không một ai tin ông về con quái vật chỉ có bóng thôi. Mọi người trong thị xã đều nghĩ rằng ông ta bị mất trí vì thấy vợ chết một cách hãi hùng, cũng vì vậy ông đã lẫn tránh những người chung quanh và xa lánh cả xã hội; nhưng, ông ta lúc nào cũng quyết tâm điều tra xem ‘cái gì’ ở trong hang. Ông nghiên cứu các sách vở trong thư viện của thị xã, xem tất cả các sách thời Trung Cổ, sách Thánh Kinh, kể cả những sách thần thoại, nhưng ông không tìm thấy được một chút gì diễn tả giống như ông đã nhìn thấy và kinh nghiệm được.

Cho đến một ngày mùa đông, vài tháng sau, khi ông ta nghe có người gõ cửa đó là lúc ông tìm được câu trả lời.

Nhật ký của ông ghi lại rằng một người Mỹ da đỏ địa phương, có cha mẹ đã ở lại đó khi bộ lạc Arapaho bị đuổi để đến vùng đất dành riêng cho người da đỏ tại Oklahoma, đã nghe được câu chuyện của ông. Ông này đã xác nhận và biết về nguồn gốc của con quái vật; đó là một truyền thuyết được truyền từ đời này sang đời khác trong lạc bộ của ông ta, và họ đã sống chung quanh trên vùng đất này cả ngàn năm. Họ gọi con quái vật đó là Grosslor nghĩa là con ăn linh-hồn: con quái vật này có năng lực phi thường, nó nằm lì dưới hang qua nhiều thập niên và nó chỉ ra ngoài để ăn thịt hay linh hồn của con người sau đó lại trở về một giấc ngủ dài.

Những người gọi là Shamans đã giữ bùa và những câu thần chú trong một thời gian khá lâu để kiềm chế con ăn linh-hồn trong sự kiểm soát và giới hạn năng lực của nó, bắt nó phải ngưng hoạt động hàng trăm năm. Không may, việc dời đi của bộ lạc Arapaho đã làm con quái vật ấy lấy lại lực lượng và nó bị đánh thức bởi đứa con gái của ông và người bạn khi chui vào hang động.

Với sự hiểu biết trong tay, ông đi đến tiểu bang Oklahoma hy vọng có thể bàn thảo với những người vẫn còn biết bùa chú để kiềm chế con quái vật. Khi đến Oklahoma ông được một người đàn ông tên là Hache-hi là một người không những có thể thuật lại từng chi tiết về con ăn linh-hồn mà còn biết được những câu thần chú đã truyền xuống từ ông nội của ông ta. Hiển nhiên, người dùng những bùa phép này sẽ bị trói buộc với con quái vật trong một phương pháp được sắp đặt sẵn, cho dù đến chết cả hai vẫn không ngừng vật lộn và chống chọi nhau. Linh hồn của người dùng bùa phép sẽ tồn tại sau khi chết để chế ngự con quái vật, và sợi dây đời sống của người Shamans sẽ tiếp tục nếu cần thiết để giữ cho linh hồn sống động trên cõi giới hiện hữu này; vì không có sự duy trì thì linh hồn sẽ từ từ tan biến và qua bên cõi giới khác, lúc đó không còn gì tồn tại để kiềm chế con ăn linh-hồn.

Gia đình của ông đã đi về bên kia thế giới, ở trong vùng lại không có ai tin câu chuyện ông kể, vì vậy ông quyết định rời bỏ căn nhà đã một lần cùng vợ con sinh sống hạnh phúc để một mình đi vào rừng và dựng lên một căn chồi thô sơ gần cửa hang của con quái vật. Ông sinh sống ở đó và thường xuyên làm bùa phép đọc thần chú, và ngăn ngừa những người muốn vào hang động. Ông ta quyết tâm dành hết cuộc đời của mình để bảo vệ khu vực này không cho con quái vật lộng hành nữa. Vì không có ai tiếp nối coi chừng sau khi ông lìa đời nên ông đã khắc những dấu hiệu bùa chú trên tấm gỗ đậy hang và trên vách tường sau căn chồi đối diện cửa hang, ồn hy vọng rằng nó sẽ giúp giữ linh hồn ông lại sau khi chết cũng như có thể kiềm chế con quái vật trong ngục tù của nó.

....

Mặc dù tôi và Paul đã phá vỡ tấm ván gỗ đậy hang và bùa phép đã khắc trên đó nhưng vẫn còn đủ năng lực để ông trở lại cõi giới hiện hữu này để kiềm chế con quái vật một lần nữa, sau đó những dấu hiệu bùa phép lại hiện lên tươi mới và rõ ràng hơn...

Sau khi đọc nhật ký và hiểu rõ nguồn gốc của những sự việc đã xảy ra, tôi và Paul cảm thấy rất an toàn khi trở lại nơi đây để thám hiểm thêm, và chúng tôi đã tìm thấy cách căn chồi không xa có hai tấm bia đá không tên (có lẽ đó là hai tấm bia đá để kỷ niệm vợ và con gái ông) nằm trên khu đất mà chúng tôi nghĩ rằng đó là căn nhà hạnh phúc mà ông già đã ở giờ đây chỉ còn trơ trội lại mấy cái chân nền.

Chúng tôi không bao giờ kể chuyện này cho người khác nghe, vì ai mà tin chúng tôi chứ?

Cho đến ngày hôm nay tôi vẫn có nhiều nghi vấn chưa được giải đáp. Thí dụ như là con vật đó từ đâu đến? Nó là một con quái vật thiên nhiên của địa cầu, một con ác quỷ, một người ngoại tinh, hay là một con quái vật thời tiền sử? Tại sao con quái vật kia không giết chúng tôi khi chúng tôi bị kẹt ở trong hang... có thể nó không đủ năng lực chăng? Điều kỳ lạ làm tôi đau đầu nhất là tiếng nói của đứa con gái. Có lẽ đó là hồn ma của cô gái con ông già???

Tôi biết rằng trên Địa Cầu này vẫn còn nhiều thứ để cho chúng ta khám phá và tìm hiểu. Có phải thể xác thì vô thường còn linh hồn mới là trường tồn không?

CÁc bài đều lấy từ tamlinh.com
 
Back
Top